phong trào thơ mới lớp 11

80 năm Thơ mới và Tự lực văn đoàn; Quá trình hiện đại hóa văn học; Việt Nam - Trung Quốc; Văn học Phật giáo; Xây dựng chuẩn mực chính tả; KH ngữ văn 2013; KH ngữ văn 2014 Văn mẫu lớp 11. Tháng Sáu 4, 2018 hoangbach Leave a Comment on Bài văn chứng minh nhận định về thơ mới. Đề bài: Với thơ mới thi ca Việt Nam bước vào giai đoạn mới, Sự ra đời của phong trào thơ mới, sự xuất hiện của cái tôi là một bước chuyển mình to lớn của văn Trải qua những thăng trầm của thời cuộc, từ căn biệt thự nhỏ tọa lạc tại số 10 đường Huyền Trân Công Chúa đến ngôi nhà mới với tên chính thức là Học Viện Thánh Giuse tại số 9 Cô Giang, Đà Lạt (1968-1986), rồi những ngày tháng tu học âm thầm nơi Cộng thể Học PHONG TRÀO THƠ MỚI. CÁC THỂ THƠ TỪ PHONG TRÀO THƠ MỚI ĐẾN NAY. I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHONG TRÀO THƠ MỚI. 1. Hoàn cảnh ra đời phong tào thơ mới. Đế quốc Pháp xâm lược nước ta kéo theo sự xâm nhập của văn minh phương Tây vào xã hội Việt Nam. Sự ảnh hưởng này tồn tại Chuyên mục: Lớp 11, Ngữ Văn 11. Thông tin cần xem thêm: tiêu biểu cho phong cách thơ của Tố Hữu, thể hiện niềm vui và mối duyên đầu của người thanh niên trẻ khi đến với cách mạng. gần gũi, là đại diện cho một lớp nhà thơ mới. Phân tích Từ ấy học sinh giỏi Sehr Erfreut Meine Bekanntschaft Zu Machen Hörbuch. 1 1 THƠ MỚI TRONG CHƯƠNG TRÌNH MÔN VĂN HỌC - PHỔ THÔNG TRUNG HỌC Tào Văn Ân Một thời gian khá dài, trong chương trình môn văn phổ thông trung học, Thơ mới nói riêng và văn học lãng mạn nói chung chỉ được trình bày sơ lược ở phần khái quát về văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI, cùng với sự đổi mới trong đời sống xã hội trên nhiều lĩnh vực, chương trình môn văn ở các lớp phổ thông trung học cũng đã có những điều chỉnh cho phù hợp với cách nhìn mới, với tình hình thực tế của văn học nước nhà. Từ 1989 đến nay, chương trình môn văn có những thay đổi đáng kể. Một số bài thơ tiêu biểu nhất của Thơ mới được đưa vào giảng dạy trong chương trình môn Văn lớp 11 chương trình hợp nhất hai bộ sách miền Nam và miền Bắc năm 2000. Cụ thể có một tác giả và các bài thơ sau 1. Xuân Diệu Tiểu sử và sự nghiệp thơ văn. 2. Thơ duyên. 3. Đây mùa thu tới 4. Vội vàng. 5. Nguyệt cầm đọc thêm 6. Tràng giang của Huy Cận. 7. Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. 8. Tống biệt hành của Thâm Tâm 9. Tiếng sáo thiên thai của Thế Lữ đọc thêm 10. Tương tư của Nguyễn Bính. Những bài Nguyệt Cầm, Tiếng sáo thiên thai, Tương tư không được phân tích và bình giảng trên lớp mà chỉ yêu cầu học sinh đọc thêm. Như vậy, Thơ mới được giảng dạy trực tiếp trên lớp chỉ có 1 tác giả là Xuân Diệu và 7 bài thơ với sự phân bố thời gian là 8 tiết. Có thể nói các nhà biên soạn chương trình đã chọn và giới thiệu với học sinh lớp 11 một tác giả và những bài thơ tiêu biểu của Thơ mới nhằm giúp học sinh thấy được những cái hay, đặc biệt là những cái mới của phong trào thơ ca này. Sự phân bố số bài như trên là tương đối hợp lí so với những tác phẩm văn học hiện thực phê phán và văn học cách mạng cùng giai đọan chủ yếu được dạy ở lớp 12. Để có thêm tư liệu cho việc giảng dạy, chúng tôi liệt kê những bài Thơ mới và những bài nghị luận văn chương có liên quan trong 2 bộ sách giáo khoa lớp 11 mới nhất được biên soạn theo chương trình thí điểm Trung học phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành theo quyết định số 47/2002/QĐ-Bộ GD và ĐT ngày 19 tháng 11năm 2002 của Bộ trưởng Bộ GD và ĐT được xuất bản tháng 7 năm 2004. Giữa hai bộ sách mới có một số khác biệt nhỏ như sau Chương trình của Bộ sách thứ nhất do Trần Đình Sử làm Tổng chủ biên gồm các bài 1 1. Tác giả Xuân Diệu. 2 2. Vội vàng của Xuân Diệu. 3 3. Tràng giang của Huy Cận 4 4. Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. 5 5. Mưa xuân của Nguyễn Bính. 6 6. Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh. Phần đọc thêm bắt buộc Tống biệt hành của Thâm Tâm; Tiếng địch sông Ô của Phạm Huy Thông; Đây mùa thu tới; Tựa tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu Chương trình của bộ sách thứ 2 do Phan Trọng Luận làm Tổng chủ biên gồm các bài 1 1. Tác giả Xuân Diệu. 2 2. Vội vàng của Xuân Diệu. 13 3. Tràng giang của Huy Cận 4 4. Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. 5 5. Tương tư của Nguyễn Bính. 6 6. Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh Phần đọc thêm bắt buộc Tống biệt hành của Thâm Tâm; Tiếng địch sông Ô của Phạm Huy Thông, Đây mùa thu tới; Tựa tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu Như vậy, chương trình của 2 bộ sách vừa được xuất bản có một khác biệt nhỏ trong việc chọn lựa giữa 2 bài thơ của Nguyễn Bính Bộ 1 Mưa xuân, Bộ 2 Tương tư. Ngoài ra không còn sự khác biệt nào ở cả 2 phần chính thức và đọc thêm bắt buộc. So với sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, chương trình chính thức phần Thơ mới trong 2 bộ sách giáo khoa thí điểm mới nhất giảm đi 1 bài nhưng nếu học sinh phải học thêm những bài “đọc thêm bắt buộc” thì tổng số vẫn là 10 bài. Giáo viên đương nhiên phải dạy kĩ các bài chính thức nhưng không thể không lưu ý học sinh phải đọc kĩ những bài “đọc thêm bắt buộc”. Để phân tích và giảng dạy những bài thơ mới trong chương trình lớp 11, có thể cần phải lưu ý một số vấn đề quan trọng sau 1. Vấn đề văn bản và cách hiểu một số từ của các bài Thơ mới trong chương trình môn văn PTTH. Trước hết cần phải xác định chính xác văn bản thơ mà trong khi trích đăng cũng như bình giảng không ít người đã sơ sót, mặc dù đã được nhiều lần đính chính. Có những khác biệt ở một số bài thơ giữa 4 bộ sách giáo khoa văn học lớp 11 được xuất bản từ năm 2000 trở về trước Tên bài thơ Sách lớp 11 Ban KHXH. Đặng Thanh Lê chủ biên Sách lớp 11. Nguyễn Đình Chú chủ biên Sách lớp 11. Trần Hữu Tá chủ biên Sách lớp 11 chương trình hợp nhất năm 2000 Đây mùa thu tới -Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh -Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh -Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh -Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh Thơ Duyên -Anh đi lững đững chẳng theo gần Anh đi lững đững chẳng theo gần Anh đi lững thững chẳng theo gần Anh đi lững đững chẳng theo gần Vội vàng -In thiếu cả câu -Con gió xinh thì thào trong lá biếc Và này đây ánh sáng chớp hàng mi -Con gió xinh thì thào trong lá biếc Và này đây ánh sáng chớp hàng mi -Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc Và này đây ánh sáng chớp hàng mi -Con gió xinh thì thào trong lá biếc Đây thôn Vĩ Dạ -Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? -Lá trúc che ngang mặt chữ điền ? -Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? -Lá trúc che ngang mặt chữ điền ? -Sao anh không về chơi thôn Vĩ -Lá trúc che ngang mặt chữ điền -Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? -Lá trúc che ngang mặt chữ điền ? Tràng giang -Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả -Lòng quê dợn dợn vời con nước Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa -Thuyền về nước lại sầu trăm ngả -Lòng quê dợn dợn vời con nước Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa -Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả -Lòng quê dờn dợn vời con nước Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa -Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả -Lòng quê dợn dợn vời con nước Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa 2Tống biệt hành Chí lớn chưa về bàn tay không Một chị hai chị cũng như sen Giời chưa mùa thu tươi lắm thay Chí lớn chưa về bàn tay không ? Một chị hai chị cũng như sen Giờ chưa mùa thu tươi lắm thay Chí nhớn chưa về bàn tay không Một chị hai chị cùng như sen Giời chưa mùa thu tươi lắm thay Chí lớn chưa về bàn tay không Một chị hai chị cùng như sen Giời chưa mùa thu tươi lắm thay Qua so sánh, chúng tôi nhận thấy sách văn học chỉnh lí năm 2000 đã khắc phục được những sơ sót mà các bộ sách giáo khoa xuất bản trước đó mắc phải. Trong các bộ sách giáo khoa trước, bên cạnh những lỗi chủ yếu do in ấn, vẫn có những lỗi do người soạn chưa thật cẩn thận dẫn đến việc giải thích sai nghĩa của từ. Chẳng hạn, trong không ít lần, sách giáo khoa và nhiều tài liệu đã in sai từ "dợn dợn" trong bài Tràng giang của Huy Cận thành "dờn dợn". Từ việc trích sai thơ như vậy, người soạn sách cũng như người giảng dạy phân tích cái hay của từ ngữ và hình tượng thơ đã không ít lần giải thích thiếu chính xác ý nghĩa của từ ngữ cũng như dụng ý của nhà thơ. Trong một bài phê bình về cách hiểu sai từ "dợn dợn" trong bài thơ Tràng giang, Trần Mạnh Hảo cũng tiếp tục hiểu hai từ trên thành dờn dợn. Ông viết "Chúng tôi chỉ xin lấy một ví dụ khi tác giả sách giáo khoa giảng giải cho giáo viên hiểu câu thơ thứ ba của khổ thơ kết "Lòng quê dờn dợn vời con nước" như sau "Dờn dợn dờn là màu xanh dờn. Dợn là dợn lên, gợn lên cỏ non xanh dợn chân trời- Truyện Kiều... Sách giáo khoa giải thích từ dờn dợn cũng chưa đúng "dờn là màu xanh dờn". Dờn là một trợ từ, nhiều trường hợp chỉ có nghĩa khi đi kèm với một từ mẹ khác. Nó đi trước dợn theo kiểu gờn gợn, cốt làm cho sự dợn của sóng bớt đi, nhỏ đi Tào Văn Ân nhấn mạnh như cái dợn kia được nhìn từ xa, chứ không phải dờn là màu xanh dờn như sách giáo khoa đã giải thích" 1Nếu Trần Mạnh Hảo và một số nhà giáo đã đọc kỹ lời đính chính của chính nhà thơ Huy Cận thì sẽ không giải thích từ láy toàn phần dợn dợn thành dờn dợn "Hai chữ dợn dợn của tôi thường bị đọc sai thành dờn dợn, như thế chẳng có ý nghĩa gì. Trong bài thơ Tràng giang có nhiều điệp ngữ như điệp điệp, song song, dợn dợn. Mỗi từ điệp như thế đều có ý nghĩa riêng về nội dung cũng như về nghệ thuật"2. Việc in chính xác văn bản không phải chỉ là yêu cầu đối với việc giảng dạy các bài Thơ mới hay môn ngữ văn mà là yêu cầu chung trong ngành sư phạm, đặc biệt là với sách giáo khoa. Những sơ sót này đã được sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000 điều chỉnh. Đây cũng chính là những điều kiện đầu tiên để cảm thụ đúng đắn thơ ca. Những bài thơ được in trong sách giáo khoa thí điểm xuất bản năm 2004 mặc dù đã sữa chữa nhiều sơ sót trong các lần in trước nhưng do trích thơ từ những nguồn khác nhau nên cũng có vài khác biệt. Hãy thử so sánh một số bài Thơ mới trong 2 bộ sách vừa nêu Tên bài thơ Sách giáo khoa thí điểm lớp 11, tập 2, Bộ 1- Trần Đình Sử chủ biên Sách giáo khoa thí điểm lớp 11, tập 2, Bộ 2- Phan Trọng Luận chủ biên Vội vàng Con gió xinh thì thào trong lá biếc Thơ thơ, Nxb Đời nay, H. 1938 Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc Tuyển tập Xuân Diệu, tập 1- Thơ, nxb Văn học, H. 1983. Đây thôn Vĩ Dạ Ai biết tình ai có đậm đà? Đau thương, nxb Hội nhà văn, H. 1995 Ai biết tình ai có đậm đà. Thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên tuyển chọn và giới thiệu, nxb Văn học, H. 1991 Tràng giang Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả Sông dài trời rộng, bến cô liêu Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Lửa thiêng, Nxb Hội nhà văn, H. 1995 Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả Sông dài, trời rộng, bến cô liêu Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng Lửa thiêng, Nxb Đời Nay, HN, 1940 3Tống biệt hành Một chị, hai chị cũng như sen Trời chưa mùa thu tươi lắm thay 1940 Thơ Thâm Tâm, Nxb Văn học, Một chị, hai chị cùng như sen Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay Thi nhân Việt Nam, in lần thứ 2, Nguyễn Đức Phiên xb, H. 1943 Tiếng địch sông Ô Chỉ trích một số đoạn tiêu biểu Theo Huy Thông; Tiếng sóng –Yêu thương-Tiếng địch sông Ô, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 1995 Trích từ câu 175 đến hết bài thơ câu 234 Theo Hà Nội báo, số 2 ngày 8-1-1936 Qua so sánh, có thể thấy Bộ 2, sách thí điểm có những sơ sót dẫn đến việc hiểu sai câu thơ và không thấy hết những nét riêng của nhà thơ. Chẳng hạn Con gió khác với cơn gió, và đó là cách nói mới mẻ của Xuân Diệu. Trong bài “Tràng giang”, giữa hai câu “Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả” và “ thuyền về nước lại, sầu trăm ngả” không thể hiểu giống nhau được do dấu phảy được đặt ở những vị trí khác nhau..... Giảng bài “Đây thôn Vĩ Dạ” không thể không chú ý đến 3 dấu hỏi trong 3 khổ thơ đi liền theo các câu Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Có chở trăng về kịp tối nay? Ai biết tình ai có đậm đà?. Phải chăng vì in thiếu dấu hỏi cuối câu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà ?” mà sách giáo viên lớp 11 Bộ 2, tập 2 hoàn toàn không đề cập đến chi tiết này, trong khi đó ở sách Bài tập Bộ 1, tập 2 lại đưa vào một ý lớn để hướng dẫn cho giáo viên giảng dạy? “Mỗi khổ thơ trong bài thơ chứa đựng một câu hỏi. Những câu hỏi này đã giúp độc giả nhận ra được tiếng nói trữ tình sâu thẳm của bài thơ. Với câu hỏi đầu tiên vốn có dáng dấp của một lời tự nhắc Sao anh không về chơi thôn Vĩ? ta nghe được niềm xốn xang trong lòng nhân vật trữ tình khi kỉ niệm về Huế, về thôn Vĩ được đánh thức một cách đột ngột. Còn câu hỏi thứ hai Có chở trăng về kịp tối nay? cho thấy nhân vật dần chìm sâu vào mặc cảm về thân phận và tự thấy mình là kẻ “chậm chân”, “lỡ chuyến” giữa cuộc đời. Câu hỏi xuất hiện cuối bài Ai biết tình ai có đậm đà? ẩn ngụ một chút hoài nghi, một chút trách móc, vừa thoáng vẻ cam chịu, vừa nhói lên khát vọng sống khôn cùng”3Những bài Thơ mới được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 11 là những bài thơ hay, tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, thể hiện khá rõ nét đặc trưng cơ bản của thơ lãng mạn. Nhưng ở mỗi nhà thơ; mỗi bài thơ; những đặc trưng đó được thể hiện với những sắc thái riêng biệt, độc đáo tùy thuộc vào đối tượng, hoàn cảnh riêng, cảm xúc, quan niệm nghệ thuật, tài năng và cá tính sáng tạo của từng nhà thơ. Chẳng hạn, nỗi buồn và cô đơn là một nét chung được thể hiện ở hầu hết các nhà Thơ mới nhưng tâm trạng, cảm xúc đó được biểu hiện khác nhau qua các tác giả cũng như ở các bài thơ khác nhau của cùng một tác giả. Nếu người đọc bắt gặp ở bài Thơ duyên một nỗi buồn nhè nhẹ, phảng phất của một thanh niên mới lớn ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của cô gái nhưng vẫn e dè ngần ngại vì "lần đên và những người am hiểu về Thơ mới. Cái mới của Thơ mới được biểu hiện trước hết ở Phan Khôi, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư.. nhưng có thể nói được tập trung thể hiện rõ nét và tiêu biểu nhất trong thơ Xuân Diệu. Phải chăng chọn Xuân Diệu là tác gia duy nhất của Thơ mới, các tác giả biên soạn sách muốn nhấn mạnh đến những cái mới mà các tác giả Thơ mới đã đạt được? Từ suy nghĩ đó, chúng tôi cho rằng, giảng về Xuân Diệu, thơ Xuân Diệu, và cả những nhà Thơ mới khác, cần phải nhấn mạnh những cái mới trong thơ của họ so với những nhà thơ trước đó. Nói cách khác, giảng về Thơ mới, nhất thiết phải giúp cho học sinh thấy được cái mới trong thơ họ so với thơ Trung đại Việt Nam. Riêng với Xuân Diệu, không chỉ thấy rõ cái mới trong thơ ông so với các nhà thơ Trung đại mà còn cần chỉ rõ cái mới đó so với các nhà thơ lãng mạn cùng thời. Trong quá trình phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu có một vai trò hết sức quan trọng. Ông được các nhà phê bình văn học cùng thời nhận xét là người mang đến cho Thơ mới nhiều cái mới nhất Vũ Ngọc Phan, Người mới nhất trong những nhà Thơ mới Hoài Thanh. Cái mới trong thơ Xuân Diệu được thể hiện trên nhiều phương diện từ quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người đến những cách tân táo bạo trong hình thức nghệ thuật thơ ca... Những đổi mới của thơ Xuân Diệu trong giai đoạn 1930-1945 gắn liền với quan niệm nghệ thuật của ông về con người và thế giới. Là một nhà thơ lãng mạn, Xuân Diệu có ít nhiều điểm tương đồng với các nhà Thơ mới. Nếu như các nhà Thơ mới đề cao cái tôi, ý thức sâu sắc về cá nhân thì Xuân Diệu cũng không vượt ra ngoài qui luật chung đó của thời đại nhưng con người cá nhân trong thơ Xuân Diệu cũng có những nét riêng không lẫn vào đâu được, đó “là Một, là Riêng, là Thứ Nhất” như ông quan niệm. Cũng như các nhà Thơ mới, ông cũng thể hiện con người với nhiều ước mơ, mộng tưởng, cô đơn, lạc loài nhưng điều quan trọng trong thơ ông là con người đó đồng thời cũng gắn bó sâu xa, máu thịt với cuộc đời thường nhật, biểu hiện một khát vọng sống mãnh liệt, nồng nàn, tha thiết. Xuân Diệu đã cảm nhận thế giới vượt ra ngoài thông lệ so với những nhà thơ của quá khứ cũng như nhiều nhà thơ đương thời. Những sự vật vốn trừu tượng, vô hình thường hiện lên một cách sinh động, cụ thể trong mối tương quan, tổng hòa của các giác quan. Riêng trên bình diện ngôn ngữ thơ ca, Xuân Diệu có những điểm mới, rất sáng tạo, lạ lùng, mà đương thời không ít người chê là ngô nghê, lai căng, mất gốc...Quả thật, nhiều câu thơ của Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của sự diễn đạt của câu văn Pháp. Trong thơ Xuân Diệu có hàng loạt những từ ngữ mới mẻ nhưng cũng chỉ những từ ngữ ấy mới diễn đạt được cái mới trong tâm hồn thi sĩ của nhà thơ Nhan sắc ơi, bình minh quá, tháng giêng cười, tuôn âu yếm, lùa mơn trớn, rượu nơi mắt, gấm trong lòng, chùm mong nhớ, khóm yêu đương, hoa kỹ nữ, gió phong lưu, tình thổi gió, trăng mối lái, trăng vú mộng, tắt nắng đi, buộc gió lại.. 5 Phong trào thơ mới là một hiện tượng rất nổi bật trong thơ ca nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung ở thế kỷ 20. Khi phong trào thơ mới vừa xuất hiện đã khẳng định được vị trí vững chắc của mình trong văn học của dân tộc với những tác giả nổi tiếng như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Huy Cận, Thế Lữ…Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây ra không ít sự tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu, phê bình văn học và độc giả của từng thời kỳ phát triển trong lịch sử xã hội nước ta. Hiện nay, việc đánh giá thơ mới vẫn còn diễn ra rất sôi nổi. Trong bài viết này, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu xem phong trào thơ mới là gì qua những đánh giá và nhận xét của các bậc thầy đi trước. Chúng tôi tin rằng qua những thông tin được cung cấp trong bài viết này các bạn sẽ tìm được cho mình một câu trả lời phù hợp nhất cho những thắc mắc của niệm về thơ mới khi so sánh với thơ cũPhong trào thơ mới là gì? Chính cha đẻ đề xướng ra phong trào thơ mới – nhà thơ Phan Khôi cũng chưa biết nên gọi là gì mà chỉ giới thiệu đôi nét về nó thông qua Phụ nữ Tân văn số 122, 1932. Nhà thơ Phan Khôi đã chia sẻ như sau “..Tôi sắp toan bày ra một lối Thơ mới. Vì nó chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên là lối gì được, nhưng có hiểu đại khái ý nghĩa của lối Thơ mới này ra, là đem ý có thật trong tâm khảm mình thể hiện ra bằng những câu, có vần mà không phải bó buộc bởi niêm hay luật gì hết”.Một năm sau, cũng trên Phụ nữ Tân văn số 211, đã chia sẻ ý kiến của nhà diễn thuyết Nguyễn Thị Khiêm – một trong những người đầu tiên ủng hộ phong trào thơ mới. Bà cho rằng “Muốn cho sự tình tứ không vì khuôn khổ mà mất đi thì chúng ta cần có một lối thơ khác có lề lối và nguyên tắc rộng hơn. Thể thơ này rất khác với thơ ca xưa nên gọi là Thơ mới”.Theo ý kiến 2 nhà thơ trên thì thơ mới chính là một thể loại thơ tự do. Khoảng 10 năm sau, khi thơ mới đã bắt đầu ổn định và có vị trí trong nền văn học Việt Nam thì chính lúc đó nhà thơ Hoài Thanh, Hoài Chân đã đưa ra nhận định của bản thân tổng kết lại về phong trào “Chúng ta không thể hiểu theo cách định nghĩa của ông Phan Khôi. Thể thơ tự do chỉ là một phần nhỏ trong phong trào của thơ mới. Trước hết, phong trào thơ mới chính là một cuộc thí nghiệm táo bạo để có thể định lại những giá trị của khuôn phép xưa”.Trong cuộc thí nghiệm này “trong trào thơ mới đã bỏ đi được rất nhiều khuôn phép trong thơ ca cũ nhưng cũng từ đó mà có nhiều khuôn phép càng trở nên bền vững hơn… những khuôn phép mới xuất hiện trong trào thơ mới có một số bị tiêu trầm như thơ mười hai chữ, thơ mười chữ, thơ tự do hoặc khuôn phép sắp tiêu trầm như cách gieo vần theo thể thơ của Pháp”.Thông qua những cuộc thí nghiệm dựa trên sự vận dụng sáng tạo các thể thơ truyền thống của các nhà thơ mới, các tác giả trong nền thơ ca của Việt Nam cũng đã đưa ra được kết quả để chứng minh cho những nhận định của năm 1971, Hà Minh Đức đã thống kê lại 168 bài thơ của 45 nhà thơ mới được tổng hợp lại trong tập Thi nhân Việt Nam bởi Hoài Thanh, Hoài Chân và đưa ra được một kết luận “Nhìn chung tất cả những thể thơ 8 từ, 7 từ, 5 từ, lục bát là những thể thơ được sử dụng phổ biến nhất trong phong trào thơ mới”.Qua những những kết luận về thể thơ được sử dụng phổ biến trong phong trào thơ mới của Hà Minh Đức chúng ta có thể thấy được những nhận xét ban đầu của Hoài Thanh, Hoài Chân là rất xác đáng và có giá tìm câu trả lời chính xác nhất về khái niệm của thơ mới, các tác giả “Thi nhân Việt Nam” chỉ dừng lại ở việc sử dụng chữ “Tôi” và đưa ra nhận xét rằng đó là điều quan trọng, là tinh thần của thơ mới. Quan niệm như vậy về thơ mới là rất có chừng mực và đúng đắn, tiến gần được với thực chất của vấn đề. Ý kiến của các nhà thơ mới như Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan cũng xoay quanh ý kiến của Hoài Thanh, Hoài niệm về thơ mới khi so sánh với thơ cách mạngBên cạnh những quan niệm về thơ mới được đưa ra bằng cách so sánh với thơ cũ như đã nêu ra ở trên, một quan niệm về thơ mới được đưa ra bằng cách so sánh với thơ cách mạng cũng rất đáng để chú ý tới. Ví dụ như “Thơ mới ở đây chính là một trong trào thơ ca theo trường phái lãng mạn 1932 – 1945 màn quan điểm nghệ thuật vì nghệ thuật và tư tưởng của hệ tư sản” – Phan Cự Đệ 199722; “ Phong trào thơ mới cũng giống như khuynh hướng lãng mạn nói chung là sự biểu hiện của cá nhân tư sản” – nhóm Lê Quý Đôn 1957290; “Thơ mới ở trong thời kỳ này thể hiện sự không bằng lòng với cuộc sống đang xảy ra trước mắt và nó còn hướng người đọc vào những con đường bế tắc” – Viện Văn học, 196479.Những quan điểm này rõ ràng là đã đánh giá quá thấp, phê phán rất nặng nề về nội dung tư tưởng cũng như tác dụng của phong trào thơ mới dù học có vạch ra được một ranh giới giữa thơ cách mạng và kháng chiến trước và sau năm 1945 với phong trào thơ nay, thơ mới được rất nhiều nhà nghiên cứu văn học đánh giá cao, họ gần như muốn đánh đồng thơ mới cùng với thơ ca Việt Nam hiện nói, đầu thế kỷ 20 phong trào thơ mới là một hiện tượng của văn học có giá trị rất lớn. Phạm vi lịch sử cụ thể của phong trào thơ mới chính là từ năm 1930 đến năm 1945, thời gian trước đó nó chỉ là mầm mống và có rất nhiều thể loại thơ khác không thuộc phong trào thơ mới và từ sau năm 1945 thì lại càng không phải là thơ mới. Trong thời gian này, phong trào thơ mới đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể nhưng cũng không thể tránh khỏi những hạn vì thế, thơ mới đã có một vị thế riêng và bộ mặt riêng nhưng chỉ là một bộ phận chứ không phải là thơ ca hiện đại và cần được đánh giá một cách xứng đáng. Đề thi hay và khó về những bài thơ mới lớp 11. Phân tích những bài thơ mới ngữ văn 11 để làm sáng tỏ nhận đinh của Hoài Thanh ”Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt” “Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt.” Một thời đại trong thi ca – Hoài Thanh Anh/ chị hãy làm sáng tỏ ý kiến của Hoài Thanh, qua việc phân tích một số bài thơ Mới đã học trong chương trình Ngữ văn 11 như Vội vàng – Xuân Diệu, Tràng giang – Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử, Tương tư – Nguyễn Bính. Hướng dẫn cách làm Xác định đúng vấn đề cần nghị luận Lòng yêu nước thương nòi qua tình yêu tiếng Việt của các nhà thơ Mới. 1. Giới thiệu vấn đề – Hoài Thanh là một trí thức yêu nước, một nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sở trường của ông là phê bình thơ. Cách bình của Hoài Thanh không bằng lí trí mà bằng tình cảm, không bằng lí lẽ khô khan mà bằng cách diễn đạt giàu hình ảnh và cảm xúc; ngắn gọn mà nói đúng được cái thần thái độc đáo của mỗi hồn thơ, câu thơ. – Trước Cách mạng, ông có cuốn Thi nhân Việt Nam viết chung với Hoài Chân, một tuyển Thơ mới xuất sắc, lời bình tinh tế, tài hoa, có giá trị tổng kết sâu sắc cả một phong trào thơ lãng mạn trong cuộc cách tân hiện đại hóa thơ ca. Khi nói về các nhà thơ của phong trào Thơ mới, Hoài Thanh nhận xét “Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếngViệt.” thích đề – “Họ” ở đây là các nhà Thơ mới như Thế Lữ, Huy Thông, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính…Đó là thế hệ nhà thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1941, những trí thức có lương tri đang sống và sáng tác trong thời kì nước ta bị thực dân Pháp đô hộ. – Trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, có nhiều cách biểu lộ lòng yêu nước…. Các nhà Thơ mới đành gửi lòng yêu nước thương nòi của mình vào tình yêu tiếng Việt. Vì họ nghĩ rằng, tiếng Việt đã hứng vong hồn dân tộc những thế hệ qua. Vận mệnh dân tộc đã gắn bó với vận mệnh tiếng Việt. Họ dùng tiếng nói của dân tộc để sáng tác thơ, duy trì tiếng nói và các thể thơ mang hồn cốt dân tộc. Qua thơ, họ ngợi ca thiên nhiên đất nước, gửi gắm nỗi buốn mất nước. 3. Phân tích một số bài Thơ mới để làm sáng tỏ. a. Vai trò, đặc điểm, vị trí của tiếng Việt – Tiếng Việt là tiếng nói của dân tộc ta, đã hình thành từ lâu đời, trải qua bao thăng trầm lịch sử, tiếng Việt càng trở nên giàu và đẹp, thể hiện được tâm hồn và sức sống của người Việt Nam – Chưa thể trở thành chiến sĩ cách mạng, nhà thơ cách mạng, các nhà Thơ mới đã dùng tiếng Việt sáng tác thơ ca, như một cách giữ gìn, kế thừa và tôn vinh tiếng nói và văn hóa của dân tộc. b. Chứng minh các nhà Thơ mới có tình yêu tha thiết tiếng Việt, dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt – Qua thơ, các nhà Thơ mới đã phát triển, đổi mới ngôn từ, làm cho tiếng Việt trở nên rất phong phú, trong sáng, tinh tể, hiện đại. Trong khi văn học trung đại sáng tác văn học bằng chữ Hán, chữ Nôm ảnh hưởng chữ Hán và các thể thơ chủ yếu là Đường luật; thì các nhà Thơ mới làm thơ bằng tiếng Việt, chữ quốc ngữ, tôn vinh các thể thơ truyền thống như thơ lục bát, thơ bốn chữ, thơ năm chữ…Họ coi tiếng nói của cha ông là là hương hỏa quý giá, mang hồn thiêng dân tộc, nên đã trau chuốt từ ngữ, hình ảnh Vội vàng- Xuân Diệu – Nhờ đổi mới về hình thức nghệ thuật ngôn từ như câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu, các cách tu từ…, các nhà Thơ mới đã thể hiện được sinh động trong thơ những hình ảnh, cảnh sắc, thần thái của cảnh trí đất nước mà trong thơ cổ vẫn chỉ là ước lệ. Chính là, các nhà Thơ mới đã dồn tình yêu nước vào tình yêu tiếng Việt – Không chỉ vẽ nên những cánh sắc quê hương đất nước với những tình cảm trong sáng, qua thơ các nhà Thơ mới còn gửi gắm nỗi buồn mất nước thầm kín mà thiết tha Tràng giang – Huy Cận – Tình yêu tiếng Việt, yêu nghệ thuật thơ ca, yêu bản sắc văn hóa dân tộc của các nhà Thơ mới rất phong phú sâu sắc. Đó một biểu hiện tinh tế của tình yêu quê hương đất nước. – Có thể còn có những tác giả, tác phẩm Thơ mới có thái độ chán chường ủy mị yếu đuối, nhưng đó chỉ là nét cá biệt, không phải là tinh thần của Thơ mới. Thơ mới bộc lộ cái tôi cá nhân sầu buồn, đó là nỗi sầu buồn nhân văn, khi hướng tình cảm của mình về quê hương đất nước. Bởi vậy tình yêu quê hương đất nước, dồn trong tình yêu tiếng Việt của các nhà Thơ mới, đã góp phần rung lên tiếng tơ lòng muôn điệu của những tâm hồn Việt. Tình yêu đó rất đáng trân trọng Đề sưu tầm Đây thôn vĩ dạ, một thời đại trong thi ca, Tràng giang, vội vàng Chuyên đề phong trào thơ mới lớp 11 được soạn dưới dạng file word gồm 29 trang. Các bạn xem và tải chuyên đề phong trào thơ mới lớp 11 về ở dưới. Phong trào thơ mới ở Việt Nam I. SỰ RA ỜI CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI Sau chiến tranh thế giới lần thứ I 1914-1918, ở Việt Nam xuất hiện một giai cấp mới, đó là giai cấp Tư sản. Chủ nghĩa tư bản đồng thời xâm nhập và thống trị đất nước ta, gây nên một cuộc xáo trộn lớn chưa hề thấy trong mấy nghìn năm lịch sử Việt Nam. Những giá trị tư tưởng vững bền từ cuối thế kỷ XIX đã trở thành đối tượng mỉa mai cay đắng trong thơ Tú Xương. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đi đôi với chính sách đẩy mạnh khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, làn gió mới Tây Âu cũng tràn vào Việt Nam. Tầng lớp tiểu tư sản thành thị có điều kiện hình thành sớm hơn sau đợt khai thác kinh tế lần thứ I của thực dân Pháp. Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên trí thức, viên chức cao cấp đã có một lối sinh hoạt văn minh ở thành thị. Người ta ở nhà lầu đi ô tô, dùng quạt điện, đi hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên nam nữ, các cô gái chàng trai, mỗi năm một mốt. Những đổi thay về sinh hoạt dần tới sự thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự tiếp xúc với văn học Pháp đặc biệt là văn hóa lãng mạn Pháp. Chính những đổi mới trong sinh hoạt tư tưởng và sự tiếp xúc với văn học lãng mạn Pháp đã dần dần đem đến cho thanh niên tiểu tư sản thành thị những năm 30 của thế kỷ này những tình cảm mới, những rung động mới. Họ yêu đương mơ mộng, vui buồn khác các nhà thơ xưa. Trong buổi diễn thuyết ở nhà hội Quy Nhơn tháng 6-1934, Lưu Trọng Lư đã nói Các cụ ta ưa những màu đỏ chót, ta lại ưa màu xanh nhạt,đứng trước một cô gái xinh đẹp các cụ xem như là một việc làm tội lỗi, còn đối với ta như đứng trước một cánh đồng xanh mát mẻ… Chính vì sự khác nhau sâu xa đó giữa hai thế hệ mà những câu thơ ngâm hoa vịnh nguyệt sáo mòn và cũ rích trên Nam Phong , Văn học tạp chí, Tiếng dân không còn hợp với tình cảm mới của họ. Phong trào Thơ mới lãng mạn ra đời năm 1932 chính là để đáp ứng nhu cầu tình cảm của một tầng lớp thanh niên mới. Một phong trào văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của xã hội. Nó là tiếng nói của một tầng lớp người, của một giai cấp vừa mới ra đời, đang lớn lên hoặc già cỗi trong xã hội. Thơ cũ trong Nam Phong, Văn học tạp chí là tiếng nói của một tầng lớp phong kiến đã thất bại và đầu hàng đế quốc. Văn học lãng mạn 1932 trở đi là tiếng nói của tư sản và tiểu tư sản thành thị. Thơ mới chủ yếu là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị là nguyên nhân chính cho phong trào Thơ mới ra đời. II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI Theo ông Phan Cư ệ có thể chia phong trào thơ mới ra 2 thời kỳ 1932-1939 1940-1945 Còn giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam thì chia làm 3 thời kỳ, chia như thế có lẽ hợp lý hơn. 1. Thời kỳ 1932-1935 Thơ mới ra đời trong một hoàn cảnh như trên đã trình bày. Những biểu hiện ban đầu nổi lên trên bề mặt công luận là cuộc đấu tranh chống lại thơ cũ. Bắt đầu quá trình sinh thành của Thơ mới, bài thơ được gọi là Thơ mới và dư luận khen chê sôi nổi là bài “Tình già” của Phan Khôi được ra mắt bạn đọc trên Phụ nữ Tân văn số 122, ngày 10-3-1932, cùng với bài giới thiệu lấy tên Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ Hai mươi năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa. dưới ngọn đèn mờ , trong ngôi nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn không đặng ể đến nỗi tình trước phụ sau, chi bằng sớm liệu mà buông nhau Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ. Thương được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy. Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung… Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau ôi cái đầu bạc. Nếu chẳng quen lung đố có nhìn ra được! Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi Tình già - Phan Khôi Bài giới thiệu của Phan Khôi cùng với thơ Tình già được coi như phát súng lệnh của phong trào Thơ mới. Từ đây cuộc đấu tranh rầm rộ của thơ mới vào thơ cũ. Trên hàng chục tờ báo cả 3 miền Bắc, Trung, Nam và trên nhiều diễn đàn, từ Sài gòn, Quy nhơn ra Nam định, Hà nội, người ta ra sức phê phán thơ cũ. a. Cuộc đấu tranh giữa thơ cũ và thơ mới Tháng 11 năm 1917 trên Nam phong tạp chí Bàn về thơ Nôm, Phạm Quỳnh viết thơ cũ là phiền phức, luật lệ ràng buộc, khắc nghiệt không khác luật hình. Năm 1928 trên báo Trung Bắc Tân Văn, Nguyễn Văn Vĩnh dịch bài thơ của LaFontaine Con ve sầu kêu ve ve Suốt mùa hè ến kì gió bấc thổi Nguồn cơn thật bối rối… ây là bài thơ dịch theo thể thơ tự do và được người đọc rất hâm mộ. ây chính là cơ sở cho một thể thơ mới ra đời. Cuộc bút chiến này có hai phe, phe thơ cũ và phe thơ mới. _ Ý kiến của phe thơ mới Phụ nữ Tân Văn số 29, ra ngày 21 tháng 11 năm 1929 … lối thơ ường luật bó buộc người làm thơ phải theo khuôn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú tự do, ý tưởng dồi dào, nếu ngày nay ta cứ sùng theo lối thơ ấy mãi thì làng văn Nôm ta không có ngày đổi Câu hỏi Phong trào thơ mới trải qua mấy giai đoạn? Đặc điểm chính của mỗi giai đoạn đó? Lời giải Phong trào thơ mới trải qua 3 giai đoạn, đó là Bạn đang xem Phong trào thơ mới trải qua mấy giai đoạn Ngữ Văn 11 * Giai đoạn 1932 -1935 – Những người khởi xướng phong trào Thơ Mới Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Tản Đà. – Các nhà thơ trong giai đoạn này kịch liệt chống đối thơ cũ, đưa ra những cách thức sáng tác mới. – Đến năm 1935 thắng thế nghiêng về nhóm thơ mới. => Giai đoạn mang tính tư tưởng. * Giai đoạn 1936 -1939 – Đội ngũ sáng tác Thơ Mới ngày càng hùng hậu. Đặc biệt có những tên tuổi xuất sắc như Xuân Diệu nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, Hàn Mặc Tử nhà thơ lạ nhất trong các nhà thơ mới – Các nhà thơ trong giai đoạn này chú trọng thay đổi về mặt nội dung và cả nghệ thuật. * Giai đoạn 1939 -1945 – Thơ Mới chiếm ưu thế và có vị trí vững chắc trong nền văn học Việt Nam. – Khái niệm “cái tôi” đã trở nên phổ biến. – Phát triển thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Xác hợp nhiều phong cách nghệ thuật. Cùng đi tìm hiểu chi tiết về quá trình hình và phát triển thơ mới qua nội dung bài viết dưới đây nhé Nội dungI. Hoàn cảnh lịch sử xã Các thời kì phát triển của thơ mớiIII. Những mặt tích cực, tiến bộ của Phong trào thơ mới I. Hoàn cảnh lịch sử xã hội. Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của lịch sử xã hội. Bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng lớp người trong xã hội. Thơ mới là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Sự xuất hiện của hai giai cấp này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học Đông Tây là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945. Giai cấp tư sản đã tỏ ra hèn yếu ngay từ khi ra đời. Vừa mới hình thành, các nhà tư sản dân tộc bị bọn đế quốc chèn ép nên sớm bị phá sản và phân hóa, một bộ phận đi theo chủ nghĩa cải lương. So với giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản giàu tinh thần dân tộc và yêu nước hơn. Tuy không tham gia chống Pháp và không đi theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương cũng là cách để giữ vững nhân cách của mình. Cùng với sự ra đời của hai giai cấp trên là sự xuất hiện tầng lớp trí thức Tây học. Đây là nhân vật trung tâm trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thông qua tầng lớp này mà sự ảnh hưởng của các luồng tư tưởng văn hoá, văn học phương Tây càng thấm sâu vào ý thức của người sáng tác. II. Các thời kì phát triển của thơ mới Theo ông Phan Cư ệ có thể chia phong trào thơ mới ra 2 thời kỳ giai đoạn 1932-1939 và giai đoạn 1940-1945. Còn giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam thì chia làm 3 thời kỳ, chia như thế có lẽ hợp lý hơn. 1. Giai đoạn 1932-1935 Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và “Thơ cũ”. Sau bài khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ … Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng Lư kêu gọi các nhà thơ mau chóng “đem những ỷ tưởng mới, những tình cảm mới thay vào những ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng thế nghiêng về phía Thơ mới. Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới với tập Mấy vần thơ 1935. Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên, … 2. Giai đoạn 1936-1939 Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so với “Thơ cũ” trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Giai đọạn này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như Xuân Diệu tập Thơ thơ -1938, Hàn Mặc Tử Gái quê -1936, Đau thương -1937, Chế Lan Viên Điêu tàn – 1937, Bích Khuê Tinh huyết – 1939, … Đặc biệt sự góp mặt của Xuân Diệu, nhà thơ ’mới nhất trong các nhà thơ mới”, vừa mới bước vào làng thơ “đã đuợc người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn”3. Xuân Diệu chính là nhà thơ tiêu biểu nhất của giai đoạn này. Vào cuối giai đoạn xuất hiện sự phân hóa và hình thành một số khuynh hướng sáng tác khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này được giải thích bàng sự khẳng định của cái Tôi. Cái Tôi mang màu sắc cá nhân đậm nét đã mang đến những phong cách nghệ thuật khác nhau cả về thi pháp lẫn tư duy nghệ thuật. Và khi cái Tôi rút đến sợi tơ cuối cùng thì cũng là lúc các nhà thơ mới đã chọn cho mình một cách thoát ly riêng. 3. Giai đoạn 1940-1945 Từ năm 1940 trở đi xuất hiện nhiều khuynh hướng, tiêu biểu là nhóm Dạ Đài gồm Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Đinh Hùng …; nhóm Xuân Thu Nhã Tập có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung …; nhóm Trường thơ Loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê,… Có thể nói các khuynh hướng thoát ly ở giai đọan này đã chi phối sâu sắc cảm hứng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ mới. Giai cấp tiểu tư sản thành thị và một bộ phận trí thức đã không giữ được tư tưởng độc lập đã tự phát chạy theo giai cấp tư sản. Với thân phận của người dân mất nước và bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ như kẻ đứng ngã ba đường, sẵn sàng đón nhận những luồng gió khác nhau thổi tới. Bên cạnh đó, một bộ phận các nhà thơ mới mất phương hướng, rơi vào bế tắc, không lối thoát. III. Những mặt tích cực, tiến bộ của Phong trào thơ mới Đánh giá Phong trào thơ mới, nhà thơ Xuân Diệu nhận định “Thơ mới là một hiện tượng văn học đã có những đóng góp vào văn mạch của dân tộc”… “ Trong phần tốt của nó, Thơ mới có một lòng yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước, yêu tiếng nói của dân tộc”. Nhà thơ Huy Cận cũng cho rằng “Dòng chủ lưu của Thơ mới vẫn là nhân bản chủ nghĩa”… “Các nhà thơ mới đều giàu lòng yêu nước, yêu quê hương đất nước Việt Nam. Đất nước và con người được tái hiện trong Thơ mới một cách đậm đà đằm thắm” mới mang tinh thần dân tộc sâu sắc Thơ mới luôn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lòng khao khát tự do. Ở thòi kỳ đầu, tinh thần dân tộc ấy là tiếng vọng lại xa xôi của phong trào cách mạng từ 1925-1931 mà chủ yếu là phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu và cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Nhà thơ Thế Lữ luôn mơ ước được Tung hoành hống hách những ngày xưa” Nhớ rừng; Huy Thông thì khát khao “Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng”. Tinh thần dân tộc của các nhà thơ mới gửi gắm vào lòng yêu tiếng Việt. Nghe tiếng rư của mẹ, nhà thơ Huy Cận cảm nhận được “hèn thiêng đất nước” trong từng câu ca “Nằm trong tiếng nói yêu thương Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời”. Có thể nói, các nhà thơ mới đã có nhiều đóng góp, làm cho tiếng Việt không ngày càng trong sáng và giàu có hơn. Ở giai đoạn cuối, tinh thần dân tộc chỉ còn phảng phất với nỗi buồn đau của người nghệ sĩ không được tự do Độc hành ca, Chiều mưa xứ Bắc của Tràn Huyền Trân, Tống biệt hành, Can trường hành của Thâm Tâm … mới mang tâm sự yêu nước thiết tha Có thể nói, tinh thần dân tộc là một động lực tinh thần để giúp các nhà thơ mới ấp ủ lòng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng trong nhiều bài thơ. Đó là hình ảnh Chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp Em đi Chùa Hương; hình ảnh làng sơn cước vùng Hương Sơn Hà Tĩnh trong thơ Huy Cận Đẹp xưa; hình ảnh làng chài nơi cửa biển quê hương trong thơ Tế Hanh Quê hương Các thi sĩ đã mang đến cho thơ cái hương vị đậm đà của làng quê, cái không khí mộc mạc quen thuộc của ca dao Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, … Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, mái đình, gốc đa, bến nước, giậu mồng tơi, cổng làng nắng mai, mái nhà tranh đã gợi lên sắc màu quê hương bình dị, đáng yêu trong tâm hồn mỗi người Việt Nam yêu nước. Bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ nói trên, Phong trào thơ mới còn bộc lộ một vài hạn chế. Một số khuynh hướng ở thời kỳ cuối rơi vào bế tắc, không tìm được lối ra, thậm chí thoát ly một cách tiêu cực. Điều đó đã tác động không tốt đến một bộ phận các nhà thơ mới trong quá trình “nhận đường” những năm đầu sau cách mạng tháng Tám. Đăng bởi Sài Gòn Tiếp Thị Chuyên mục Lớp 11, Ngữ Văn 11

phong trào thơ mới lớp 11