nguồn gốc họ hồ

Nguồn gốc từ thực vật Xu hướng tất yếu để bảo vệ sức khỏe là ưu tiên lựa chọn những sản phẩm "gốc thực vật". Sử dụng sản phẩm nguồn gốc 100% thực vật, không hương liệu nhân tạo, không chứa thành phần nguồn gốc động vật đem lại những lợi ích: giảm nguy cơ bị dị ứng, không gây biến đổi gen, không gây dậy thì sớm, an toàn cho trẻ nhỏ Xuất xứ nguồn gốc dòng họ định cư lâu đời tại làng Á Lữ, Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, vốn trước là Trang Phúc Khang, có lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương, vị vua Thủy Tổ Việt nam (gần 5000 năm) Nhân vật tiêu biểu Giás sư - Tiến sỹ - Chủ tịch Hội năng lượng nguyên tử Việt Nam Vương Hữu Tấn Giáo sư - Tiến sỹ Vương Hữu Tấn 1957 Nguồn gốc nguyên liệu và sản phẩm cuối cùng của hô hấp sáng? Trả lời: - Hô hấp sáng: là quá trình hô hấp xảy ra ở ngoài ánh sáng. - Hô hấp sáng xảy ra ở nhóm TV C 3,, ở 3 loại bào quan: lục lạp, peroxixom và ti thể. Không chỉ nhập nhèm về nguồn gốc, giá cả bị thổi phồng, trong quá trình điều tra, phóng viên Báo Lao Động phát hiện sự thật rằng nhiều loại hoa quả chưa hề được cấp phép nhập khẩu vào Việt Nam, nhưng đang được bày bán tràn lan trên thị trường. Bằng các cách khác nhau, những loại hoa quả không rõ nguồn Nguồn gốc tài liệu vụ án Hồ Duy Hải Tại tòa, bị cáo Trương Châu Hữu Danh trình bày, bản thân viết khoảng 200 bài về vụ án Hồ Duy Hải. Trong đó, chủ yếu là đăng trên Facebook cá nhân. Hữu Danh không thừa nhận viết bài về vụ án Hồ Duy Hải với mục đích "đánh vào nền tư pháp". "Bị cáo là một trong những người đến hiện trường vụ án Hồ Duy Hải sớm nhất. Sehr Erfreut Meine Bekanntschaft Zu Machen Hörbuch. Theo các nhà xã hội học trong cộng đồng dân tộc Việt Nam có khoảng 769 dòng họ. Con số đó là kể tất cả các chi nhánh. Nếu nói về nguồn cội thì có thể quy về khoảng 180-190 chính tông mà thôi. Điều đó cũng dễ hiểu vì trong quá trình phát triển của dân tộc nhiều người ở các miền đất khác nhau đến nơi vùng đất mới, lâu ngày sinh con, đẻ cháu lập nên một dòng họ nói đúng hơn là một chi nhánh và lấy tên họ của mình. Đúng như Nguyễn Khoa Điềm đã nói trong bài thơ “Đất nước” “Họ mang theo tên đất tên làng trong những chuyến đi xa”. Cũng như các họ khác, họ Hồ cũng ở trong bối cảnh lịch sử đó. Hiện nay ta thấy con cháu họ Hồ hầu như có mặt nhiều nơi trong cả nước, chẳng hạn như ở một số tỉnh Hà Nội, Thái Bình, Hà Bắc, Vĩnh Phú, Hà Tây, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Tp. Hồ Chí Minh, Minh Hải, Lâm Đồng … Ngược thời gian lịch sử, con cháu họ Hồ trong cả nước đều cùng chung ngài thuỷ tổ là Hồ Hưng Dật. Tại nhà thờ họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An có câu đối CỔ NGUYỆT MÔN CAO HỆ XUẤT THẦN MINH NGU ĐẾ TRỤ Nghĩa là họ Hồ có nguồn gốc từ vua Thuấn. Trong gia phả họ Hồ cũng có ghi “Châu trung Hồ tính giải kỳ niêm duệ” Nghĩa là người họ Hồ trong châu này đều là con cháu của ông. Theo sử sách để lại, ngài Hồ Hưng Dật là con cháu vua Thuấn bộ tộc Lạc Việt thuộc tỉnh Triết Giang. Xưa kia Triết Giang Ngô -Việt nằm trong dãy đất Bách Việt bị Hán tộc tràn xuống Hán hoá. Dân tộc Việt Nam là Lạc Việt duy nhất không bị Hán hoá. Ngài Hồ Hưng Dật đậu Trạng nguyên vào năm thứ hai đời vua Hán Ấn Đế được cử sang Diễn Châu làm Thái Thú thời Hậu Hán vào khoảng 947-951 Theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên. Nhưng cũng có ý kiến nói ngài Hồ Hưng Dật sinh ra trong thời loạn lạc. Các tập đoàn phong kiến Trung Quốc xâu xé nhau, triều chính thối nát, ông đậu Trạng nguyên đáng lẽ được giữ chức vụ trọng trách trong Triều nhưng lại chỉ được giữ chức ở một châu lỵ xa xôi hẻo lánh. Vì thế ông sang Giao Châu tìm nơi lập nghiệp và lánh nạn. ông chọn hướng Bào Đột huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An là nơi cận sơn cận thuỷ có địa thế thuận lợi để làm ăn. Đây cũng là nơi lợi thế dụng võ và ở ẩn. Sách cũng ghi ngài Hồ Hưng Dật là đồng liêu với Đinh Công Trứ thân sinh Đinh Bộ Lĩnh. Hồ Hưng Dật là Diễn châu Thái thú. Đinh Công Trứ là Thứ sử Hoan châu. Đền thờ Hồ Vương Hồ Hưng Dật tại xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An *** Trãi qua các triều đại Trần, Lê, Nguyễn con cháu họ Hồ đã có nhiều thành đạt và có công lao đóng góp phần mình trong quá tình xây dựng bảo vệ quê hương, dựng nước và giữ nước, đấu tranh cho công bằng xã hội, chen vai sát cánh cùng các dòng họ khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên qua các cuộc biến động lịch sử, con cháu họ Hồ phiêu tán nhiều nơi trong cả nước đôi khi phải thay họ đổi tên, chẳng hạn cháu mười hai đời của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm khi làm con nuôi cho tuyên phủ sứ Lê Huấn ở Thanh Hoá đổi thành Lê Liêm; cháu 4 đời của Lê Liêm là Lê Quý Ly tức Hồ Quý Ly. Hồ Thơm ở Tây Sơn tỉnh Bình Định đổi là Nguyễn Huệ tức vua Quang Trung… Đến nay biết được con cháu họ Hồ khởi đầu là Hồ Hưng Dật đã trải qua hơn 1000 năm. Miêu duệ của ngài đã đến đời thứ 37, 38 và có hai Tông phái – Tông phái ở Diễn Châu trưởng. – Tông phái ở Thanh Hoá thứ. Tông phái ở Thanh Hoá khởi đầu là Hồ Liêm. Cháu 4 đời của Hồ Liêm là Hồ Quý Ly 1336-1407. Con Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương. Là quan đại thần dưới triều Trần, Hồ Quý Ly ép vua Trần Thiếu Đế nhường ngôi cho mình lập ra triều Hồ 1400 2. Năm 1401 Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương để làm Thái Thượng Hoàng. Triều Hồ tồn tại được bảy năm thì bị nhà Minh sang xâm lược, bắt được cha con Hồ Quý Ly đem về nước, nhưng được vua Minh trọng dụng vì có tài. Hiện nay con cháu Hồ Quý Ly còn tồn tại ở Trung Quốc trong đó sử sách ghi lại như Hồ Minh Đạo đậu Tiến sĩ Trung Hoa được cử làm Bố Chánh tỉnh Triết Giang. Hồ Hán Dân đậu cử nhân niên hiệu Quang Tự 1911 làm Phủ đạo nguyên soái, uỷ viên trong chính phủ Dân quốc Tưởng Giới Thạch đã từng giúp đỡ Cách mạng Việt Nam tại Trung Quốc 3. Sau thất bại của Hồ Quý Ly một số con cháu phiêu tán các nơi, số còn lại sinh sống ở Thanh Hoá. Tông phái ở Diễn Châu khởi đầu là Hồ Kha. Hồ Kha sinh hạ được Hồ Hồng trưởng và Hồ Cao thứ. Hồ Hồng là Tổ họ Hồ ở Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Cao là tổ họ Hồ ở Quỳ Trạch, xã Thọ Thành, huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An. Hồ Hồng là Chánh đội trưởng đời Trần, một võ quan cao cấp chỉ huy trên quân. Võ văn kiêm toàn, ông hy sinh trong chiến trận, mộ hiện tại ở xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Năm 1992, mộ ông được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử và văn hoá. Ở thôn Cẩm Sa, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng cũng có tượng đài của ông. Miêu duệ Hồ Hồng hiện nay xác định có 14 chi nhánh và có mặt nhiều nơi trong cả nước như đã nói trên. Ngoài các nhân vật lịch sử lớn như Hồ Quý Ly nhà cải cách, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh tụ của phong trào nông dân, Hồ Học Lãm, Hồ Tùng Mậu chiến sĩ cộng sản. về khoa bảng họ Hồ có 19 Tiến sĩ trong đó có 3 Trạng nguyên, 3 Hoàng giáp kể từ năm 1919 trở về trước. Chẳng hạn Con Hồ Cao là Trạng nguyên Hồ Tông Thốc Con Hồ Tông Thốc là Trạng nguyên Hồ Đốn Con Hồ Đốn là Trạng nguyên Hồ Thành “Một nhà ba Trạng nguyên ngồi Một gương từ mẫu cho đời soi chung” Ba con trai của Hồ Thành là Hồ Đình Trung, Hồ Đình Quế, Hồ Doãn Văn đều là Tiến sĩ triều Lê- gia đình ông Hồ Văn Xu xã Quỳnh Thiện, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An có công xây dựng nhà Lê trung hưng có 9 Thượng tướng quân cũng là 9 Quận công. Theo Quốc triều khoa lục của Cao Xuân Dục, triều Ngyễn họ Hồ có 109 cử nhân trong đó có họ Hồ ở Quỳnh Đôi có 28 cử nhân- Nhiều gia đình cha con, ông cháu, anh em cùng thi đậu như Hồ Sĩ Trinh ông, cháu, Hồ Phi Tự cha, con, Hồ Bá Ôn ông, cha, cháu, Hồ Trọng Đinh cha, con, Hồ Sĩ Lâm anh, em, Hồ Quý Châu ba anh em, Hồ Tam Kiểm cha, con. Riêng ở Quỳnh Đôi kể từ Hồ Uớc Lễ đời vua Lê Nhân Tông cho đến 1919 hết thi cử bằng chữ Hán có một Thái học sinh, hai Hoàng giáp, ba Tiến sĩ, một Thiên hạ vọng, 51 Hội thi Tam trường và phó bảng, 110 giám sinh Hương cống và cử nhân, 208 sinh đồ và tú tài. Từ năm 1919 đến năm 1945 trong phong trào Tây học cũng có nhiều người đỗ đạt như Tiến sĩ Luật Hồ Đắc Điềm, bác sĩ Hồ Đắc Di, kỹ sư Hồ Đắc Liên…4 Theo sử sách thì số tiến sĩ họ Hồ không nhiều bằng họ Ngô, họ Vũ nhưng họ Hồ thường được nhắc đến vì đã từng đạt được đỉnh cao về khôi nguyên và tập trung vào một dòng thống nhất. Ngoài ra ra một số người gốc họ Hồ đổi sang các họ khác chưa tra cứu được 5 Họ Hồ chữ Hán *** Lịch sử Việt Nam còn ghi vua Hồ Qúy Ly, vua Quang Trung, các nhà học giả, nhà văn, nhà thơ như Trạng nguyên Hồ Tông Thốc, Tiến sĩ Hồ Sĩ Dương, Hoàng giáp Hồ Phi Tích, Tiến sĩ Hồ Sĩ Tân, Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống, nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương … các nhà yêu nước và cách mạng như tiến sĩ Hồ Sĩ Tuần, Án sát Hồ Bá Ôn, các ông Hồ Trọng Phấn, Hồ Học Lãm, Hồ Tùng Mậu … mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân ta nói chung và con cháu họ Hồ nói riêng. Cây có cội, nước có nguồn. Nhớ ơn tổ tiên ta đã đặt nền móng, con cháu đời tiếp đời cùng nhau dày công cun đắp sao cho mỗi ngày gốc càng vững, cây càng tươi tốt, sây hoa trĩu quả chen vai sát canh cùng các dòng họ khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam góp phần xây dựng Tổ quốc giàu mạnh như Bác Hồ từng mong muốn. Họ Hồ ở Quảng Trị bước đầu đã tìm ra những manh mối, gốc tích của mình nhưng vẫn chưa có điều kiện để tìm về cội nguồn. Để nhớ ơn tổ tiên, phát huy truyền thống của dòng họ, hy vọng một ngày nào đó con cháu họ Hồ khắp nơi trong cả nước, trong đó có Quảng Trị, tổ chức hành hương về cội nguồn đất tổ làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An để thắp nén hương ngưỡng mộ linh hồn tiền nhân vô vàn kính mến./ Tác giả Hồ Đắc Thắng Tạp chí Cửa Việt số 33 tháng 6 năm 1997 ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………. 1- Nhà thờ họ Hồ tại Quỳnh Đôi, Qùnh Lưu, Nghệ An được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử và văn hoá. 2- Hiện còn di tích thành Nhà Hồ ở Vĩnh Lộc, Thanh Hoá. 3- đã được ông Hồ Tùng Lãm, Hồ Tùng Mậu xác nhận. 4- Sau cách mạng tháng Tám, con cháu họ Hồ có nhiều ngwoif thành đạt nhưng chưa có điều kiện tập hợp’ 5- Họ Hồ ở các dân tộc Vân Kièu, Tà Ôi ở miền Tây Bình Trị Thiên lấy họ Hồ là họ của Bác Hồ, không thuộc họ Hồ nói trong bài. Họ Hồ Việt Nam ❤️️ Lịch sử, nguồn gốc, gia phả họ Hồ ✅ Những thông tin bổ ích, cần thiết được chúng tôi tổng hợp và giới thiệu đến bạn đọc. Nguồn gốc họ Hồ của người Việt chia sẻ cùng bạn đọc một số thông tin chi tiết dưới đây về chủ đề “Nguồn gốc Họ Hồ Việt Nam”. Theo sử sách ghi lại, con cháu họ Hồ trên cả nước đều có chung một ông tổ là Hồ Hưng Dật. Trong nhà thờ họ Hồ ở làng Quyin Đôi, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An có đôi câu đối. Cổ Nguyệt Môn cao ngất cực lạc Min Ngu Hoàng Đế ý nói Họ Hồ dòng dõi vua Tuấn. Điều đó cũng được ghi trong gia phả của họ Hồ. “Châu Trung Hồ tính giải kỳ suy” Tức là người Hồ của châu này đều là con cháu ông. Ông Hồ Hưng Dật là dòng dõi vua Tuấn của bộ lạc Lạc Việt ở tỉnh Triết Giang. Xưa, Triết Giang Ngô – Việt nằm trong vùng đất Bắc Việt do Hán tộc cai trị. Người Việt Nam là người Lạc Việt duy nhất không bị Hán hóa. Ông Hồ Hưng Dật đỗ Trạng nguyên năm thứ 2 đời Hán An Đế và được cử đi Diễn Châu làm Thái thú nhà Hậu Hán khoảng 947-951 theo Đại Việt Sử Ký của Ngô Sĩ Liên.HƯỚNG DẪN TÌM NGƯỜI BẠN TÌNH Nhưng cũng có ý kiến ​​cho rằng ông Hồ Hưng Dật sinh ra trong thời loạn. Các tập đoàn phong kiến ​​Trung Quốc đang chia rẽ lẫn nhau, chính quyền thối nát, lẽ ra Trạng nguyên Bin phải giữ chức vụ quan trọng trong triều nhưng ông chỉ được giữ chức vụ đó ở một quận xa xôi. Vì vậy, ông đã đến Triệu Châu để tìm một nơi để lập nghiệp và nương tựa. Ông chọn hướng Báo Đốm huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An là nơi gần biển, sát biển, vị trí đắc địa để làm ăn. Đây cũng là lợi thế của võ thuật và ẩn nấp. Trong sách cũng ghi rằng ông Hồ Hưng Đạt là cộng sự của Ding Kong Tru cha của Đinh Bộ Lâm. Hồ Hưng Dật là Diễn Châu Thái thú. Đinh Công Trứ làm Hoan Châu truyện. Tìm hiểu 🍁 Việt Nam có bao nhiêu họ ❤️️ Danh sách, lịch sử các họ Lịch Sử Họ Hồ Việt Nam Dưới đây là vài dòng chia sẻ chi tiết về lịch sử họ Hồ ở Việt Nam, các bạn hãy chú ý theo dõi. Do những biến động lịch sử, con cháu họ Hồ sống rải rác trong cả nước có lúc buộc phải đổi họ, ví dụ cháu đời thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm được nhận làm con của Tiết độ sứ Lê Huân. Nó đã thay đổi ở Tân Hóa. Lê Liêm; Cháu đời thứ 4 của Lê Lim là Le Ku Lee hay Ho Ku Lee. Hồ Tôm thời Tây Sơn ở tỉnh Bình Định đổi thành Nguyễn Huệ hay vua Quang Trung… Cho đến nay, người ta biết rằng con cháu họ Hồ, bắt đầu là Hồ Hưng Dật, đã trải qua hơn 1000 năm. Con cháu của ông đã đến đời thứ 37 và 38 và có hai phái. Phái ở Diễn Châu Trưởng. Môn phái tại Tân Hóa thứ hai. Ông tổ họ Hồ là ai? Thủy tổ đầu tiên của họ Hồ ở Việt Nam là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, sống vào thế kỷ thứ 10, đời Hậu Hán, quê gốc ở Chiết Giang, Trung Quốc. Làm sứ quân, ông đến Bàu Đốm nay là Quỳnh. xã Lâm, huyện Quyin Lưu, tỉnh Nghệ An để lập nghiệp. Xem thêm 3 họ lớn nhất Việt Nam ❤️️ Nhiều họ phương đông nhất Sơ Đồ Phả Hệ Họ Hồ Chia sẻ hình ảnh sơ đồ gia phả Hồ Vạn giúp bạn đọc có thêm những thông tin hữu ích cho mình. Sơ Đồ Phả Hệ Họ HồTỷ lệ họ Hồ là bao nhiêu? Bao nhiêu phần trăm họ? Câu trả lời là họ Hồ chiếm 1,3% dân số Việt Nam và là họ phổ biến thứ 13 của người Việt theo thống kê mới nhất. Hàng năm vào ngày 12 tháng Giêng, con cháu họ Hồ đến dâng hương tại Nhà thờ họ Hồ Đại, tỉnh Nghệ An. Danh nhân họ Hồ là ai? Chia sẻ với độc giả từ những nhân vật nổi tiếng họ Hồ trong các lĩnh vực. Hồ Quý Ly, vị hoàng đế đầu tiên của nhà Hồ Hồ Sĩ Đống, nhà thơ, quan đại thần nhà Lê Hồ Đắc Trung, Thủ tướng Hồ Xuân Hương, nữ thi sĩ Hồ Học Lâm, chính trị gia Hồ Huân Ngiệp, giáo viên Hồ Bưu Chân, nhà văn Nam Bộ đầu thế kỷ 20 Hồ Hu Tường, nhà chính trị, nhà văn và nhà báo Hồ Tông Túc, sử gia cuối đời Trần Hồ Bắc, một nhạc sĩ nổi tiếng Hồ Đắc Di, giáo sư, tiến sĩ, giám đốc đầu tiên của trường Đại học Y Hà Nội Hồ Thị Kim Toa, Thứ trưởng Bộ Công Thương Hồ Ngọc Hà, ca sĩ, người mẫu và diễn viên Việt Nam Hồ Quỳnh Hương, ca sĩ nhạc pop Việt Nam Hồ Tấn Tài, tuyển thủ quốc gia Việt Nam Hồ Hoài Anh, nhạc sĩ ưu tú của Việt Nam Hồ Xuân Năng, doanh nhân Việt Nam Hồ Ngọc Lân, nhà hoạt động cách mạng Việt Nam Hồ Ngọc Đại, GS Khoa học Giáo dục Hồ Ngưỡng, nhà cách mạng Việt Nam Tìm hiểu 💦 Những Họ Hiếm Ở Việt Nam ❤️️ Những Họ Độc, Hiếm Nhất Việt Nam Họ Hồ trong tiếng Trung Họ Hồ trong tiếng Trung Quốc. Theo thống kê năm 2006, họ Hồ xếp thứ 15 về mức độ phổ biến ở Trung Quốc, trong khi họ Bạch Gia xếp họ này thứ 158. Hồ Dui Đống, tể tướng nhà Minh của Trung Quốc Hồ Hán Minh, Chủ tịch Viện Lập pháp Trung Hoa Dân Quốc Hồ Liên, Tư lệnh Phòng thủ Kim Môn của Quốc dân Đảng Trung Quốc Hu Qiaomu, Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc Kỳ thủ 14 lần Hồ Vinh Hoa vô địch toàn Trung Quốc Hu Jun, diễn viên điện ảnh nổi tiếng Trung Quốc Hồ Nhất Thiên, diễn viên điện ảnh Hu Yanlin, Đô đốc Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Hồ Hân Nhi là diễn viên truyền hình, điện ảnh, diễn viên sân khấu, ca sĩ, người mẫu nổi tiếng. Hồ Cẩm Đào, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Khám phá ➡️ Họ Hồ trong tiếng Trung ❤️️100+ Họ Hồ trong tiếng Trung hay nhất Họ Hồ trong tiếng Nhật Hồ Hồ được viết bằng Kanji là . The Great Dictionary of Japanese Surnames 日本苗字大辞典 có mục về họ. Đây là quốc gia có nhiều họ nhất thế giới hơn họ. Mặc dù có nhiều họ nhưng chúng rất hiếm và gần như không tồn tại ở xứ sở hoa anh đào. Họ Hồ trong tiếng Anh Ở phương Tây, những người mang họ Hồ rất hiếm, và hầu hết họ là người gốc Việt. Vì vậy, họ của người Việt thường không được dịch sang tiếng Anh mà chỉ được lược bỏ và dùng để tránh hiểu sai. Họ Hồ trong tiếng Hàn Họ Hồ trong tiếng Hàn – Ho. Đó là họ của những người thuộc khu vực văn hóa Đông Á, bao gồm Trung Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc. Theo thống kê của xứ sở Kim Chi, họ 호 đứng thứ 161 và chiếm 0,0036% dân số Hàn Quốc. Khám phá 🌼 Họ Hàn Quốc ❤️️ Họ phương Đông, họ phổ biến nhất 100 họ đẹp cho con trai Chia sẻ cùng bạn đọc top 100 họ cho bé trai dễ thương được chúng tôi tuyển chọn và tổng hợp dưới đây. Hồ Khản DânHồ Thanh HuệHồ Phước Lộchồ Thái SanHồ Đức PhiHồ Liên KiệtHồ Cao SơnHồ Đình TrungHồ Hùng TườngHồ Khán Anhồ Định NamHồ Tiến HòaHồ Đan NahanHồ Đăng MinHồ Tùng QuangHồ Cường ThịnhHồ An ThiệnHồ Thành AnHồ Gia NgỡiHồ Bá Tiến Hồ Hồng LiêmHồ Thanh PhươngHồ Quốc TiếnHồ Minh HwanHồ Gia KiệtHồ Nhật ThịnhHồ Duy TânHồ Quang XuânHồ Quang ThắngHồ Lâm PhụngHồ Đình QuangHồ Đức TríHồ Hoàn VũHồ Cao KìHồ Trí DũngHồ Thành TrungHồ Anh TàiHồ Quốc MạnhHồ Tấn PhướcHồ Hữu Hùng Hồ Hoàng QuânHồ Mẫn TàiHồ Minh HằngHồ Chí MinhHồ Quốc ToảnHồ Hùng CườngHồ Hữu CảnhHồ Hư VươngHồ Minh HòaHồ Khôi Nguyênhồ Đồng PhụngHồ Cao PhongHồ Mẫn ĐìnhHồ Gia Phướchồ Triêu ThầnThành phố Hồ Chí MinhHồ Khẩn GyanHồ Công LýHồ Hy SơnHồ Đức Thiện Hồ Dui TăngHồ Đức KhimHồ Duôi KhangHồ Thành VinhHồ Đức HânHồ Lương ThiệnHồ Bảo SơnHồ Quốc TrụHồ Tuấn ChâuHồ Phước NhânHồ Khoa TrườngHồ Quang ThạchHồ NamHồ Hùng DũngHồ Vạn QuốcHồ Hồng ViệtHồ Quốc HiềnHồ Hiếu ThôngHồ Tất HiếuHồ Hoàng Khôi Hồ Gia MinHồ Hoàng DuệHồ Thanh ĐoànHồ Tấn SangHồ Huệ TrânHo Min KwokHồ Đăng KhoaHồ Khải KaHồ Bảo TínHồ An TườngHồ Quốc HằngHồ Min TakHồ Trí TăngHồ Quốc ThànhHồ Bá KhươngHồ Kông LuânHồ Đức AnHồ Duy HưngHồ Bảo HiềnHồ Tường Lân Tổng Hợp 💧 Tên Bé Trai Họ Hồ ❤️️ 450+ Tên Bé Trai Đẹp Nhất 100 họ đẹp cho bé gái Dưới đây là 100 tên họ dễ thương cho con gái để bạn đọc có thêm những ý tưởng mới cho những cái tên hay. Hồ Thị Diệu ThùyHồ Kem LinHồ Thị Ngọc VyHồ Thị Việt NgaHồ Tử HàHồ Thị Minh ThưHồ Lệ NgàHồ Thị Bảo QuyênHồ Hoài AnHồ Thị Hàn ChiHồ Thị Hạnh TrangBiển Hồ TínHồ Thị Hồng HàHồ Thị Thanh ThưHồ Mai KhôiHồ Phương QuỳnhHồ Diễm KiềuHồ Huệ AnHồ DuyênHồ Thị Gia Hân Hồ Thảo QuyênHồ Hồng OảnHồ Thị Thúy NgọcHồ Uyên NhưHồ Hà GyanHồ Thị Ngọc VânHồ Thu NhiênHồ Minh KhảiHồ Thị Hương LamHồ Tí Tuyết NgaHồ Ánh HồngHồ im VânHồ Diễm LệHồ Vân NhịHồ Thị Diệu HoaHồ Thị Minh HuyềnHồ Trúc QuânBãi biển Hồ Thị TaoHồ Thị Nguyệt LanHồ Thị Linh Nhi Hồ Thị Ngọc ĐiệpHồ Diệu Nga!Hồ Mỹ HoànHồ Thị Bích DiệpHồ Thị Bạch TràHồ Mộng HoaHồ Tâm ĐanHồ Thị Uyên ViHồ Hiếu HạnhHồ Thị Xuân LiễuHồ Hạ LiênHồ Kim NgọcHồ Thị Tuyết HânHồ Thị Khẩn HàHồ Kiều KhanhHồ Hương GyanHồ Đình HươngHồ Suan LeeHồ Hoài GyanHồ Ý Nhi Hồ Huyền TrânHồ Thị Min AnHồ Thị Kim MaiHồ Thị Uyên TốHồ Thị Diễm ThảoHồ Hồn HânHồ Trâm AnhHồ Minh ThụyHồ Thị Mỹ TrangHồ Mỹ PhụngHồ Nhã UyênHồ Thị Bãi DàiHồ Thị Quỳnh HươngHồ Mai LanHồ Thị Hải NhiHồ Thúy NgaHồ Thiên PhươngHồ Thị Khẩn ChiHồ Lan NhiHồ Thị Phương Dung Hồ Kim DóngHồ Thị Diễm PhúcHồ Thị Lệ ChiHồ Thị Lan HuệHồ Hồng NgọcHồ Thị Hải PhượngHồ Thị Minh DuyênHồ Ngọc QuyênHồ Thị Diệu VânHồ Thị Món LanHồ Thị Minh AnhHồ Thị Nguyên ThảoHồ Thị Thùy LâmHồ Hạ UyênHồ Thị Cẩm ThủyHồ Thị Hà TiênHồ Thị Cẩm HạnhHồ Thị Khánh MaiHồ Xuân BảoHồ Kiều Anh Đón đọc Tên Hay Cho Bé Gái ❤️️ 500 tên hay cho bé gái hay và ý nghĩa Tư vấn miễn phí cách đặt tên họ Vui lòng để lại nhận xét hoặc liên hệ với chúng tôi nếu bạn cần trợ giúp về Tư vấn Miễn phí Không Tên. Tiếp xúc VIDEO HƯỚNG DẪN TÌM NGƯỜI BẠN TÌNH ➡️➡️➡️➡️ Link tham gia tìm tình yêu ➡️ ➡️ Tại đây Đăng nhập Mỗi người trong chúng ta ai cũng có riêng cho mình 1 họ tên để nhận biết nguồn gốc và họ hàng trong cùng 1 gia đình với nhau. Cái tên của đứa trẻ chính là những tâm tư, mong muốn mà cha mẹ gửi gắm vào đó. Trong khi họ lại chính là sự nhận dạng huyết thống và nguồn gốc tổ tiên của đứa trẻ. Chúng ta đã nghe nhiều những họ Nguyễn, Trần, Lê và thi thoảng cũng nghe những họ rất lạ. Đó là 1 điều dễ hiểu bởi nước rất đa dân tộc với hơn 54 người anh em khác nhau. Vậy thì Việt Nam có tổng cộng bao nhiêu họ và đâu là những họ hiếm ở Việt Nam? Hãy cùng The Coth khám phá qua bài viết về họ tên người Việt bên dưới nhé! I. Họ tên là gì? Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, những đứa trẻ đã được nghĩ cho rất nhiều cái tên thật hay và ý nghĩa. Vậy nên khi đứa trẻ chào đời, chỉ cần chấp bút làm giấy khai sinh là xong. Cái tên thì có muôn tâm tình và mong muốn của đấng sinh thành gửi gắm vào đó. Nào là mong đứa trẻ sau này trở thành con người thiện lượng, thành đạt, sung túc. Miền quê thì lại có quan niệm đặt tên con cái càng “xấu” càng “dễ nuôi”. Vậy nên mấy cái tên Tí, Tèo, Nở, Lệ,… là những cái tên thường thấy. Khác với tên, họ của đứa trẻ sẽ được đặt theo họ của người cha. Họ lại không phải là yếu tố mà chúng ta có thể tự ý sáng tạo nên được. Ví dụ cha họ Nguyễn thì con sẽ họ Nguyễn, cha họ Lê thì con họ Lê. Cấu trúc họ tên của người Việt Cấu trúc đầy đủ về danh tính 1 con người sẽ bao gồm cả họ và tên. Ở các quốc gia châu Âu, tên sẽ đứng trước họ, còn ở châu Á thì ngược lại. Cấu trúc họ tên thường thấy ở nước ta chính là Họ + Tên Đệm + Tên chính. Con gái sẽ thường lót chữ Thị, Ngọc con trai thì lót chữ Văn hoặc Hữu. Đó là lý do ta thường nghe “Nguyễn Văn A”, “Nguyễn Thị B” ở khắp nơi. Dòng họ sẽ là căn cứ để nói lên người cùng huyết thống, cùng tổ tiên. Đôi khi tên đệm cũng được bỏ qua và họ tên chỉ rút ngắn còn 2 từ. Theo thống kê mới nhất trong cuốn Họ và tên người Việt Nam thì nước ta có khoảng 1023 họ, trong đó họ của người Kinh chiếm khoảng 300 họ, còn lại là họ của các dân tộc bản địa thiểu số và một số họ hiếm bắt nguồn từ Trung Quốc. Họ Nguyễn là dòng họ lớn nhất tại Việt Nam Sở dĩ có sự đa dạng về họ như vậy là bởi Việt Nam đã có sự giao thoa văn hóa đáng kể. Nó gồm các họ của người dân tộc bản địa và các dân tộc thiểu số khác sống trên lãnh thổ đất nước Việt Nam. Việt Nam tuy nằm ở khu vực Đông Dương, nhưng phía Bắc của Việt Nam lại là Trung Quốc. Việt Nam vì thế nằm trong vùng văn hóa Đông Á nên khác với các người anh em Đông Dương khác, Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng từ văn hóa Trung Quốc cho nên họ người Việt cũng vậy. Các họ phổ biến ở Việt Nam đa số đều gắn với 1 cột mốc lịch sử quan trọng. III. Họ phổ biến nhất ở Việt Nam Việt Nam có tới hơn 10034 họ khác nhau là vậy, duy chỉ 13 họ phổ biến nhất bao gồm Họ Nguyễn 39% , họ Trần 11% , họ Lê có 10%, họ Phạm 7%, họ Hoàng Huỳnh 5%. Các họ phổ biến còn lại là Phan, Vũ Võ, Đặng, Bùi, Đỗ, Hồ, Ngô, Dương, Lý. Tỉ lệ các họ ở việt nam Hầu hết những họ phổ biến ở Việt Nam đều liên quan đến các triều đại phong kiến Việt Nam. Họ phổ biến nhất của người Kinh và của toàn bộ người Việt Nam chính là họ Nguyễn. Một thống kê vào năm 2005 cho thấy có tới khoảng 38% dân số Việt Nam mang họ Nguyễn. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi, triều đại nhà Nguyễn chính là triều đại cuối cùng của phong kiến Việt Nam. Tương tự, các họ Trần, Lê, Lý cũng phổ biến bởi đó là họ của các vị hoàng tộc từng cai trị Việt Nam. Đó là triều đại nhà Trần, Tiền Lê - Hậu Lê và nhà Lý. THE COTH - Top sản phẩm bán chạy -31% Kích thướt S M L XL 2XL -31% Kích thướt S M L XL 2XL -31% Kích thướt S M L XL 2XL -31% Kích thướt S M L XL 2XL -31% Kích thướt S M L XL 2XL -31% Kích thướt S M L XL 2XL IV. Nguồn gốc của những họ hiếm ở Việt Nam này? Nguồn gốc họ nói chung Theo một số chuyên gia, họ của người Việt xuất hiện vào năm 2592 TCN. Khi mà vua Phục Hy ở Trung Quốc quy định tất cả các dân điều phải có đẩy đủ họ và tên. Những ai cùng họ 3 đời thì không được lấy nhau, vậy nên họ đã ra đời từ đó. Người Việt Nam do ở gần biên giới và chịu ảnh hưởng văn hóa của người Hoa nhiều năm nên đã dần có những họ giống với người Hoa. Nguồn gốc họ ở Việt Nam Họ ở Việt Nam được cho là xuất hiện từ đời Vua Hùng, chính vua An Dương Vương đã đặt họ cho dân tộc ta. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng quan điểm này là sai. Bởi, lúc này Việt Nam vẫn còn tồn tại chế độ mẫu hệ nên sẽ không có họ. Ngay cả Vua Hùng cũng không hề có họ rõ ràng. Vậy nên, họ trong tên của người Việt Nam được tin là xuất hiện sớm nhất vào thời kì đầu Công Nguyên. Trải qua khá nhiều năm, khi mà các cuộc hôn nhân dị tộc Việt – Hán ngày càng nhiều, với ý định đồng hóa của người Hán muốn người Việt theo chế độ phụ hệ, trong đó tất yếu sẽ có việc đặt họ tên cho con cháu của mình. Tiêu biểu như Lý Bí, cha của ông là trưởng bộ lạc tên Lý Toàn, có nguồn gốc ở phía Nam Trung Quốc, bản thân Lý Bí lúc này là hậu duệ đời thứ 7. Mẹ Lý Bí là bà Lê Thị Oánh người Thanh Hóa, vậy nên lúc này, các họ ở Việt Nam có thể đã xuất hiện một cách chính thức. Ngoài ra, theo nhiều nguồn khác, các dân tộc thiểu số sắc tộc bản địa ở Việt Nam, thường có họ bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ vật tổ tô-tem. V. Đâu là những họ hiếm ở Việt Nam? Các họ hiếm ở việt nam Như đã nêu phía trên, có tới 90% người Việt Nam mang những họ phổ biến như Nguyễn, Lê. Vậy chính xác là 10% họ còn lại là những họ hiếm ở Việt Nam. Tiêu biểu phải kể đế các họ Thạch, Phùng, Vi, Nông, Xa, Uông, Khâu… Đa phần các họ hiếm này đều có nguồn gốc từ Trung Quốc. Và chúng ta thi thoảng sẽ nghe thấy những họ này từ những người Hoa hoặc những người sống ở vùng núi. Lời kết Trên đây, The Coth đã cùng bạn tìm hiểu qua những họ hiếm ở Việt Nam. Cũng như là nguồn gốc và cách đặt tên của người Việt Nam. The Coth hy vọng rằng đây là 1 bài viết hữu ích với bạn. Nếu bạn còn biết các họ hiếm nào của nước ta thì đừng ngần ngại mà hãy để lại bình luận bên dưới cho The Coth biết với nhé! Xem thêm Lịch sử dòng họ Việt Nam phổ biến xưa và nay THE COTH - Top sản phẩm bán chạy Kích thướt M L XL 2XL Kích thướt M L XL 2XL Kích thướt M L XL 2XL Kích thướt M L XL 2XL Kích thướt M L XL 2XL Kích thướt M L XL 2XL [Tác giả Quang Nguyen] Bài viết thể hiện quan điểm của riêng tác giả. Mọi người nên cân nhắc trước khi đọc. Người Việt Nam thần thánh ai cũng có HỌ , nhưng có lẽ ít người biết gốc tích họ của mình, tôi xin giới thiệu bài biên lừng danh của anh Vinhhuy Le, 1 giáo sư lừng danh kim cổ về Họ của người Việt HỌ CỦA NGƯỜI VIỆT Danh tính gắn liền với đời người, ai cũng có quyền tự hào về tên họ của mình, nhưng ít khi người ta quan tâm cái họ của mình bắt nguồn từ đâu; và càng hiếm người phát hiện ra tộc Việt vốn… không có họ. Họ của người Việt, trừ một số rất ít mượn của Chiêm tộc và Chân Lạp, còn thì hầu hết đều bắt nguồn từ Trung Hoa. Đọc sử Việt Nam, nếu chú ý cái họ, ta sẽ thấy thủy tổ các dòng dõi vương triều Đại Việt đều có huyết thống rơi rớt từ phương Bắc Ngô Quyền, người sáng lập triều Ngô, gốc ở đất Ký 冀 – tên gọi tắt tỉnh Hà Bắc, Trung Hoa; Đinh Bộ Lĩnh, người gốc Việt 粵 – tên gọi tắt tỉnh Quảng Đông; Lê Hoàn gốc Thục 蜀 – tên gọi tắt tỉnh Tứ Xuyên; Lý Công Uẩn và Trần Thừa cùng gốc Mân 閩 – tên gọi tắt tỉnh Phúc Kiến; Hồ Quý Ly gốc ở Chiết Giang; Mạc Đăng Dung gốc Quảng Đông; Lê Lợi gốc Phúc Kiến; Trịnh Kiểm, cũng như Nguyễn Phúc Ánh, đều gốc Mân Phúc Kiến. Tại sao lại có sự dính líu của các vương triều ở đây? Thật ra không phải chỉ bọn vua quan, mà cả lê dân ít nhiều đều có gốc gác từ Tàu. Có muốn chối bỏ điều đó cũng không được, nó thể hiện rành rành trên chứng minh thư mỗi người. HỌ TRIỆU 趙 Xếp theo số lượng thì họ Triệu đứng hàng thứ 7 ở Trung Hoa. Họ Triệu hình thành chủ yếu là do họ Doanh 嬴. Thủy tổ họ Doanh có công lớn trừ phản tặc, được Chu Mục vương 1054-949 trCn cắt thưởng cho thành Triệu. Từ đó, để nhớ huân công này, phần nhiều con cháu họ Doanh lấy Triệu làm họ, và lập ra nước Triệu thời Chiến quốc. Triệu quốc thiên đô đến Hàm Đan nay thuộc tỉnh Hà Bắc, đến năm 222 trCn thì bị Tần diệt. Họ Triệu sinh sôi phát triển chủ yếu ở miền bắc Trung Hoa. Theo “Sử ký” của Tư Mã Thiên, vào cuối đời Tần, dòng dõi nước Triệu là Triệu Đà, làm huyện lệnh của Tần, vì bất phục, muốn tạo dựng giang sơn riêng, nên đã cát cứ một dải Lĩnh Nam, lấy Quảng Châu làm trung tâm, lập ra nước Nam Việt, tự xưng Nam Việt vương. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” “Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định, nước Hán, đóng đô ở Phiên Ngung nay ở tỉnh Quảng Đông. Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207 trCn], Tần Nhị thế năm thứ 3, vua chiếm lấy đất Lâm Ấp và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt vương”. HỌ NGÔ 吳 Ngô được xếp hạng là dòng họ lớn thứ 10 ở Trung Hoa, hàng thứ 6 ở Việt Nam, và là một trong 20 họ phổ biến ở Triều Tiên. Nguồn gốc họ Ngô vốn từ họ Cơ 姬, thủy tổ là Thái Bá và Trọng Ung đời nhà Thương. Nguyên đời Thương 1766-1122 trCn, thủ lĩnh họ Cơ của bộ tộc Chu là Cơ Cố Công Chu Thái vương có ba con trai Thái Bá, Trọng Ung và Quý Lịch. Chu Thái vương đặt hy vọng lớn vào người con út Quý Lịch. Thái Bá và Trọng Ung do đó truyền ngôi lại cho em. Quý Lịch sau này có người con là Cơ Xương làm nên đại nghiệp, lập nhà Chu, chính là Chu Văn vương, người diệt nhà Thương. Nói về Cơ Thái Bá và Cơ Trọng Ung, họ sau đó đã đến khai phá vùng duyên hải mạn đông nam. Năm 585 trCn, cháu đời thứ 19 của Trọng Ung là Thọ Mộng chính thức xưng vương, lập nên nước Ngô hùng mạnh, từng tranh bá với thiên hạ. Đến 473 TrCn, Ngô bị nước Việt diệt. Con cháu nước Ngô chạy loạn tứ tán, để khỏi quên nước cũ, họ lấy quốc hiệu Ngô làm họ. Họ Ngô đào thoát ra hải ngoại, đã sớm đến Nhật Bản. Sau khi nước Ngô bị diệt, khoảng 450 trCn, nhiều con cháu họ Ngô đã đến Nhật Bản. Có nhiều giả thiết cho rằng Thần Võ thiên hoàng Jinmu Tennō, vị Thiên hoàng đầu tiên của Nhật Bản, là dòng dõi họ Ngô thời Chiến quốc. Cùng lúc với nhánh lánh nạn sang phương đông, một chi khác của họ Ngô thiên di về phương Nam, đến Giao Chỉ. Sau đó, do nhậm chức quan hoặc bởi doanh thương, họ Ngô ngày càng nhiều người tìm đến vùng đất này. Trong bộ “Nguyên Hòa tính toản” của Lâm Bảo đời Đường biên soạn còn ghi lại Cháu đích tôn của họ Ngô ở Bột Hải là Ngô Nạp nhậm chức thứ sử An Châu sau đổi thành Ái Châu, nay là tỉnh Thanh Hóa, do đó nhiều người họ Ngô ở Bột Hải đã di cư đến miền bắc Việt Nam. Khi nhà Đường diệt vong, Trung Hoa phân rã thành 10 nước. Lúc ấy có Lưu Ẩn là tiết độ sứ Thanh Hải quân kiêm tiết độ sứ Tĩnh Hải quân và An Nam đô hộ phủ. Lưu Ẩn mất, em là Lưu Nham lên thay, tự xưng mình là hậu duệ nhà Hán, lập ra nhà Nam Hán. Đây chính là thời kỳ Ngũ đại Thập quốc bên Tàu 907-979. Năm 917, Nam Hán bổ nhiệm Dương Đình Nghệ làm tiết độ sứ Giao Chỉ. Năm 937, Dương Đình Nghệ bị bộ tướng là Kiều Công Tiễn sát hại để cướp ngôi vị. Năm sau, một nha tướng khác, đồng thời cũng là con rễ của Dương, là Ngô Quyền, mang quân từ châu Ái Thanh Hóa kéo về giết Kiều Công Tiễn, đồng thời đánh bại luôn quân Nam Hán vừa kéo sang toan bình định Giao Chỉ. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, lập nên nhà Ngô. Sử nước ta vẫn thường tâng bốc Ngô là vương triều độc lập đầu tiên của Đại Việt, nhưng thực ra đây chỉ là sự tranh chấp quyền lợi và thế lực giữa bọn quan lại Trung Hoa trong lúc rối ren mà thôi. Ngô Quyền chính là một người Tàu, là cháu đời thứ 50 của Ngô Quý Trát ở trấn Diên Lăng thuộc tỉnh Giang Tô. Quý Trát là con thứ tư của Thọ Mộng, người khi xưa đã lập nên nước Ngô. Ngô vương vốn muốn truyền ngôi cho Thọ Mộng, nhưng ông không chịu nhận, bỏ trốn đến Diên Lăng khai khẩn lập ấp. Chi họ Ngô này sau đó có người thiên di sang Nam, đến đời Ngô vương Quyền thì được làm nha tướng, lại được Dương Đình Nghệ gả con, cho phụ coi quản châu Ái. HỌ ĐINH 丁 Theo các sách “Nguyên Hòa tính toản”, “Vạn tính thống phổ”, “Thông chí – thị tộc lược”, thì gốc của họ Đinh là từ họ Khương. Con trai Khương Tử Nha là Khương Cấp, cùng làm trọng thần nhà Chu, khi mất được Chu ban cho thụy hiệu là Đinh công, con cháu của Cấp vì đó lấy thụy hiệu làm họ. Thời Ngũ đại Thập quốc, Trung Hoa mênh mông chia thành 10 nước xâu xé nhau, thì quận Giao Chỉ nhỏ bé bằng bàn tay cũng chia làm 12 sứ quân 944-968 tranh giành thế lực, và trong 12 thế lực đó, hết 3/4 có thể xác định đều là người Tàu. Đinh Bộ Lĩnh, người anh hùng cờ lau tập trận, là con của Đinh Công Trứ. Trứ vốn người Tàu gốc ở Quảng Đông, sang làm thứ sử châu Hoan, là nha tướng của sứ quân Trần Lãm. Khi Trần Lãm mệnh một năm 967, Đinh Bộ Lĩnh thừa hưởng binh quyền, từ đó dẹp bọn người Tàu kia, lập ra nước Đại Cồ Việt 968. Nếu không có gốc gác họ Tàu đó, vào năm 975, Tống Thái tổ khó lòng phong Đinh Bộ Lĩnh làm “An Nam Đô hộ Kiểm hiệu Thái sư Giao Chỉ quận vương”, để kể từ đó Trung Hoa chịu nhìn nhận Đại Việt như một nước chư hầu, chứ không phải là quận huyện do họ cai quản nữa. HỌ LÊ 黎 Lê xếp hạng 92 trong sách “Bách tính gia” của Trung Hoa soạn vào đời Tống, nhưng là một trong 10 họ lớn ở Việt Nam. Đời nhà Thương, có hai nước chư hầu nhỏ cùng lấy quốc hiệu là Lê một thuộc khu vực tỉnh Sơn Tây Trung quốc ngày nay; và một ở huyện Vận Thành tỉnh Sơn Đông. Con cháu hai nước này đều lấy quốc hiệu làm họ. Từ thời cổ đại, đã có nhiều người Tàu họ Lê di cư sang Đại Việt, chẳng những thế, họ còn gầy dựng Lê thành vọng tộc suốt một dải Thanh Hóa. Năm 980, người họ Lê gốc Thục Quảng Tây là Lê Hoàn sáng lập nên triều Tiền Lê của Đại Việt. Năm 1428, một người họ Lê khác, gốc Mân Phúc Kiến, là Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê. Đọc kỹ “Đại Việt sử ký toàn thư”, ta sẽ thấy ông Phúc Kiến Lê Lợi là người quen biết, thường xuyên vào ra trướng phủ của các quan cai trị người Minh. HỌ LÝ 李 Lý xếp hạng tư trong “Bách gia tính”, tính về số lượng là dòng họ lớn nhất ở Trung Hoa. Họ Lý vốn đã có từ đời nhà Ân, gốc ở Lộc Ấp tỉnh Hà Nam, hậu duệ sau này lập nên Đại Đường 618–907 thịnh trị ở Trung Hoa. Do nhiều duyên khởi, sau khi nhà Đường bị diệt, đã hình thành nên hai chi họ Lý ở Việt Nam và Triều Tiên. Năm 1009, Lý Công Uẩn, người đất Mân Phúc Kiến, vốn dòng dõi Tào vương Lý Minh con trai Đường Thái tôn Lý Thế Dân lập nên nhà Hậu Lý. “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi thân thế Lý Công Uẩn rất khôi hài bà mẹ họ Phạm, nhân đi chơi chùa Tiêu Sơn, cùng với thần nhân giao hợp mà có chửa”. Theo “Tốc thủy ký văn” soạn khoảng 1019-1086 của Tư Mã Quang viết về giai đoạn Lục triều của Bắc Tống, có đoạn thuật lại nguyên do chiến tranh giữa Tống-Lý, vô tình nhắc đến một chi tiết liên quan đến nguồn gốc nhà Lý Ngoài ra, còn “Mộng Khê bút đàm” soạn khoảng 1086-1093 của Thẩm Quát 1031-1095; “Tục Tư trị thông giám trường biên” của Lý Đảo 1115-1184, “Trịnh Thiều Châu kỷ lược phụ lục” soạn khoảng 1240-1280 của Trịnh Tủng, cũng đều khẳng định gốc gác người Mân của nhà Hậu Lý. Thậm chí, còn có “Lý trang Chử nội Lý thị phòng phả” soạn năm 1266 – đời Nam Tống, là sách gia phả dòng họ Lý ở đất Mân còn ghi chi tiết cụ thể ông nội Công Uẩn tên Lý Tung 883-948, nguyên tịch huyện Nhiêu Dương, Thâm Châu. Tung làm tể tướng nhà Hậu Tấn, đời Tấn Cao tổ trị vì năm 942-946, Tung bị vu oan hãm hại nên con cháu phải dời đến đất Mân; cha Uẩn là Lý Thuần An 921-999, con cả của Lý Tung, đang làm chức Thủy lục Vận sứ, do cha bị hại mà phải bỏ quan chức đào thoát, An từ đó kinh doanh vận tải đường thủy, từng đưa thuyền đến Chân Lạp, Xiêm La, và sau định cư Giao Chỉ; còn Công Uẩn, vốn tên chữ là Triệu Diễn, con thứ của Thuần An. Những sách liệt kê trên đều là sử liệu quan trọng, có ghi rõ gốc gác Công Uẩn, và đều có trước “Đại Việt sử ký Toàn thư” soạn 1272-1697, vậy tại sao “Toàn thư” lại chép Uẩn là con hoang của thần nhân, con nuôi của Lý Khánh Văn? Các nhà chép sử của Đại Việt còn nợ hậu thế câu trả lời cho vấn đề này. Do hoàng thất gốc Mân, nên thời Lý-Trần, người Mân từ Trung Hoa sang đều được ưu đãi, phong cho quan chức và trọng dụng. Triều đình Lý-Trần do đó cũng mô phỏng y hệt thể chế Trung Hoa, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, khoa cử. Chữ Hán được phổ cập và dùng làm phương tiện tiến thân cho tầng lớp nho sĩ. Có thể nói, Lý-Trần tuy tiếng là vương triều độc lập, nhưng lại có công Hán hóa Việt tộc hơn cả người Hán. Làm vua rồi, Uẩn bắt chước các hoàng đế Trung Hoa, phong “quốc tính” cho những người có công trạng, họ Lý ở Đại Việt từ đó lan rộng. HỌ TRẦN 陳 Họ Trần được phân bố rất rộng, đây là họ được xếp hàng thứ 10 trong “Bách gia tính”, lớn hàng thứ 5 ở Trung Hoa, và là một trong 10 họ lớn ở Việt Nam. Họ Trần vốn gốc là nước Trần cổ đời Tây Chu, chiếm lĩnh vùng Hoài Nam nay thuộc tỉnh Hà Nam – Trung Hoa. Vua khai quốc nước Trần là Duy Mãn, vốn là hậu duệ của vua Thuấn, con cháu lấy quốc hiệu cựu triều làm họ nên có họ Trần. Họ Trần thiên di hải ngoại, đời Tống đã có người họ Trần đến Giao Chỉ. “Toàn thư” ghi họ Trần vốn người đất Mân. Nhưng truy theo gia phả thì tổ tiên Trần thiệt ra là họ Tạ. Tạ Thăng Khanh vốn người huyện Trường Lạc, phủ Phúc Châu nay là thủ phủ tỉnh Phúc Kiến, do thất chí trong khoa cử nên bỏ nhà lưu lạc đến Ung Châu, tỉnh Quảng Tây. Sau đó Khanh buôn bán ở vùng biên giới, được viên quan ở Giao Chỉ là Trần Hiếu nhận làm rễ, lại đổi tên cho thành Trần Kính. Kính chính là cha của Trần Thừa, ông nội của Trần Cảnh tức Trần Thái tôn 1218-1277. [“Đại Việt sử ký Toàn thư” ghi “… Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân có người nói là người Quế Lâm, có người tên là Kính đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê…” Bản kỷ, Trần Thái tôn hoàng đế]. Sau khi lên ngôi, nhà Trần liền cử sứ giả sang Tàu cầu phong, nguyện suốt đời giao hảo với Đại Tống, được sách phong An Nam quốc vương. Do cả đời chỉ biết Đại Tống là thượng quốc, vẫn cho Trung Hoa là đệ nhất thiên hạ, nên khi Mông Cổ mượn đường đánh Tống, nhà Trần chẳng biết trời cao đất dày, xem quân Mông như phường man di nhược tiểu. Trong cuộc “Kháng Mông lần thứ nhất” 1257, “Toàn thư” thuật lại trận chiến, thấy vua tôi nhà Trần ra trận vẫn khinh thị như đi xem hát, mãi đến lúc kinh thành Thăng Long bị san bằng mới hiểu ra sức mạnh của đội quân Mông Cổ. Và sau này, khi núng thế trước sức mạnh ấy, Thái tôn hỏi kế, Trần Nhật Hiệu đã bày mưu “nhập Tống” chạy sang nước Tống. Hẵn khi đó, anh em nhà ấy vẫn không sao ngờ rằng hơn 20 năm sau Nam Tống bị Mông Cổ nuốt gọn. HỌ HỒ 胡 Trong “Bách gia tính”, Hồ đứng hàng thứ 158, nhưng về số lượng lại xếp hàng thứ 13 ở Trung Hoa. Họ Hồ, cũng như Trần, vốn bắt nguồn từ nước Trần cổ, đầu triều Tây Chu. Vốn Duy Mãn sáng lập nước Trần có thụy hiệu là Hồ công, con cháu do đó chia làm hai chi, một chi lấy quốc hiệu Trần làm họ, chi kia lấy thụy hiệu Hồ làm họ. Hồ Quý Ly 1336-1407, có lẽ do không được các sử gia đánh giá cao, nên đã ghi rất chi tiết về nguồn gốc “… Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Triết Giang bên Trung quốc, thời Hậu Hán 947-950 được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn tức vùng Diễn Châu, Nghệ An. Đến thời loạn mười hai sứ quân, họ Hồ dời vào hương Bào Đột nay là xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ” “Toàn thư”, phụ lục Bản kỷ nhà Trần. Quý Ly không hề giấu diếm nguồn gốc người Tàu của mình. Lên ngôi, ông liền đổi quốc hiệu thành Đại Ngu – để ghi nhớ gốc họ Hồ vốn là con cháu Ngu Thuấn. Do gốc Tàu, thông thạo ngôn ngữ mẫu quốc, nên con Quý Ly là Nguyên Trừng sau này được nhà Minh trọng dụng. Sau này, có một kẻ họ Hồ từ tông chi Hồ Quý Ly, đổi thành họ Nguyễn và tiếm xưng hoàng đế, chính là Nguyễn Huệ [Hồ Thơm] 1788-1792. HỌ MẠC 莫 Mạc là dòng họ lâu đời nhất Trung Hoa, được sách “Bách gia tính” xếp hàng 168. Họ Mạc chiếm số lượng lớn ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Tứ Xuyên. Thủy tổ họ Mạc là Chuyên Húc, cháu nội Hoàng Đế. Chuyên Húc xây dựng thành cổ là Mạc thành nay thuộc Hà Bắc, Trung Hoa, con cháu lấy tên đất đó làm họ là Mạc. Họ Mạc khởi nguyên có hai chi một chi ở Hà Bắc như đã nói trên; chi khác bắt nguồn từ nước Sở thời cổ. Thời Nam Bắc triều 420-589, các ngoại tộc đến định cư ở Tàu phần lớn đều lấy Mạc làm họ. Đến thời Ngũ đại Thập quốc 907-979, họ Mạc ở tỉnh Giang Nam phát triển mạnh, còn họ Mạc ở phương bắc do sự trà trộn của ngoại tộc nên suy yếu mai một dần. Lúc này họ Mạc bắt đầu đến Phúc Kiến sinh sống. Cuối đời Tống, do Mông Cổ xâm phạm, họ Mạc lại lần xuống đến Quảng Đông, Quảng Tây. Mạc Đăng Dung 1483-1541, tổ tiên vốn là di dân Trung Hoa từ Quảng Đông. Cùng là soán ngôi, nhưng Điện tiền thị vệ Lý Công Uẩn được tôn là minh quân, còn Đô chỉ huy sứ Mạc Đăng Dung phải chịu tiếng lộng thần. Triều Mạc ngắn ngủi, chỉ 13 năm 1527-1540, cũng như triều Hồ, bị lên án vì đã bại binh trước quân Tàu. Mạc Kính Thự trong tờ biểu cầu cứu Mãn Thanh cũng có kể ra ông cha mình vốn gốc ở thôn Trà Hương, huyện Đông Quan, Quảng Đông. HỌ TRỊNH 鄭 Họ Trịnh nguồn gốc từ nước Trịnh 806-375 trCn thời Xuân Thu. Trịnh bị nước Hàn diệt, con cháu lấy tên nước cũ làm họ. Trịnh đứng hàng thứ 7 trong “Bách gia tính”, về số lượng xếp hàng 21 ở Trung Hoa. Họ Trịnh phân bố rất rộng, đặc biệt đông đúc ở Chiết Giang và Phúc Kiến. Họ Trịnh di dân từ Phúc Kiến đã dựng nên nhà Trịnh ở Đại Việt, tồn tại được 242 năm 1545-1787. Trịnh Hoài Đức 1765-1825, công thần của nhà Nguyễn, cũng là dòng dõi họ Trịnh ở đất Mân tên tắt của tỉnh Phúc Kiến này. HỌ NGUYỄN 阮 Nguyễn là tên một nước chư hầu nhỏ thời nhà Thương 1766-1122 trCn. Nước này chiếm lĩnh một dải huyện Kính Xuyên, thuộc tỉnh Cam Túc. Cuối đời Thương, nước Nguyễn bị diệt, con cháu lấy tên nước cũ làm họ. Thời Nam Bắc triều, Trung Hoa đại loạn. Họ Nguyễn ở vùng Giang-Chiết vì muốn tránh xa chiến địa nên dâng tấu tình nguyện sang Giao châu làm quan rất đông. “Hậu Hán thư” ghi lại trong số đó có viên huyện lệnh Đan Dương, tên là Nguyễn Phu xin được chức thứ sử Giao Châu, bèn sang Nam trấn nhậm [vào năm 353]. Họ Nguyễn từ đó phát triển sang Đại Việt. Sau đó, khi Trần cướp ngôi đã buộc toàn bộ họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn. Nguyễn vì vậy trở thành dòng họ lớn nhất Việt Nam. Có nhiều giả thiết đặt ra xoay quanh nguồn gốc chúa Nguyễn, có vài nguồn khẳng định Gia Long chính nhờ gốc Mân này mà được hầu hết Hoa kiều ở Việt Nam hết lòng ủng hộ tài lực, vật lực, làm nên nghiệp đế.

nguồn gốc họ hồ